top of page

Dinh dưỡng thai kỳ: Tăng & giảm cân

Xem bài trước: Tập gym cho bà bầu Về mặt sinh học, cuộc đời của mỗi chúng ta bắt đầu không phải từ lúc được sinh ra mà từ thời điểm chúng ta được mang thai. Thời kỳ mang thai thực sự là một cuộc chạy marathon kéo dài khoảng 40 tuần đòi hỏi duy trì sự bền bỉ, ổn định điều kiện tốt nhất ở nhiều khía cạnh, trong đó có dinh dưỡng. Thời kỳ mang thai thường được chia làm 3 giai đoạn gọi là tam cá nguyệt (trimester): Tam cá nguyệt thứ nhất (tuần 01-12), tam cá nguyệt thứ hai (tuần 13-27) và tam cá nguyệt thứ ba (tuần 28 cho đến khi sinh). Khi thụ thai, một tế bào tinh trùng thụ tinh với một tế bào trứng, tạo ra hợp tử. Hợp tử nhanh chóng phân chia thành nhiều tế bào để trở thành phôi và tự cấy vào thành tử cung. Tại tử cung, vào cuối tuần thứ 8 sau khi thụ thai, nó sẽ phát triển thành bào thai. Một số thay đổi lớn xảy ra bao gồm sự phân nhánh của các tế bào thần kinh để hình thành các con đường thần kinh nguyên thủy ở tuần thứ 8. Ở tuần thứ hai mươi, các bác sĩ thường thực hiện siêu âm để thu thập thông tin về thai nhi và kiểm tra những bất thường. Đến lúc này có thể biết được giới tính của em bé. Ở tuần thứ 28, thai nhi bắt đầu bổ sung thêm mỡ để chuẩn bị cho cuộc sống bên ngoài bụng mẹ. Khả năng phối hợp giữa hành động mút và nuốt, cần thiết cho việc bú sau khi được sinh ra, chỉ xuất hiện ở tuần thứ 32-34 và hoàn tất vào khoảng tuần thứ 36-38 của thai kỳ. Trong toàn bộ quá trình này, lựa chọn dinh dưỡng cho người mẹ không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của chính cô ấy. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của đứa trẻ sau khi được sinh ra. Điều quan trọng nhất tất nhiên là tiêu thụ thực phẩm lành mạnh ở mọi giai đoạn của cuộc đời, bắt đầu từ khi còn trong bụng mẹ. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu của người phụ nữ với một số chất dinh dưỡng nhất định sẽ tăng lên nhiều hơn. Và nhu cầu này cần được đảm bảo tốt nhất có thể trong mọi giai đoạn của thời kỳ mang thai. Nếu những nhu cầu dinh dưỡng này không được đáp ứng, trẻ sơ sinh có thể bị thiếu cân (cân nặng khi sinh dưới 2.5kg), đẻ non hoặc gặp các vấn đề về phát triển khác. Thời kỳ trước mang thai Cho mục đích y tế, quá trình mang thai sẽ được tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng của người phụ nữ cho đến khi sinh con (thường kéo dài khoảng 40 tuần). Những thay đổi lớn bắt đầu xảy ra trong những ngày đầu tiên, thường là vài tuần trước khi người phụ nữ biết mình có thai. Trong giai đoạn này, dinh dưỡng đầy đủ sẽ hỗ trợ quá trình phân chia tế bào, biệt hóa mô và phát triển cơ quan. Mỗi tuần trôi qua đều đạt được những cột mốc mới.  Vì vậy, không chỉ phụ nữ, những người làm cha tương lai cũng nên xem xét thói quen ăn uống của mình. Lối sống ít vận động và chế độ ăn ít rau quả tươi có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới. Đàn ông uống quá nhiều rượu cũng có thể làm hỏng số lượng và chất lượng tinh trùng của họ. ( Link ) Việc mang thai có thể xảy ra bất ngờ. Vì vậy, điều quan trọng là tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ phải nhận được đủ các dưỡng chất, trong đó có Folate. Folate, còn được gọi là axit folic, rất quan trọng cho việc sản xuất DNA, RNA và hình thành tế bào. Sự thiếu hụt có thể gây ra bệnh thiếu máu hồng cầu khổng lồ hoặc sự phát triển của các tế bào hồng cầu bất thường ở phụ nữ mang thai. Nó cũng có thể có ảnh hưởng sâu sắc đến thai nhi. Thông thường, lượng folate có tác động lớn nhất trong 8 tuần đầu của thai kỳ, khi ống thần kinh đóng lại. Ống thần kinh phát triển thành não và tủy sống của thai nhi, và lượng folate đầy đủ sẽ làm giảm nguy cơ dị tật não và dị tật ống thần kinh, xảy ra ở 1/1000 ca mang thai ở Bắc Mỹ mỗi năm. [ Link ] Chất dinh dưỡng quan trọng này cũng hỗ trợ tủy sống và lớp vỏ bảo vệ của nó. Theo khuyến nghị của Bộ Y Tế năm 2007, phụ nữ trong độ tuổi sinh nở cần có đủ 400 microgam folate mỗi ngày và 600 microgam mỗi ngày trong thời kỳ mang thai.  Tên “folate” có nguồn gốc từ tiếng Latin “folium” có nghĩa là lá, và các loại rau lá xanh như rau bina và cải xoăn là nguồn cung cấp folate tuyệt vời. Folate cũng được tìm thấy trong các loại đậu, gan động vật và cam. Tuy nhiên cần lưu ý cẩn trọng với Acid folic là một dạng tổng hợp của vitamin B9, còn acid pteroylmonoglutamic hay bị nhầm lẫn với folate. Nó được sử dụng trong các chất bổ sung và được thêm vào các sản phẩm thực phẩm chế biến, chẳng hạn như bột mì và ngũ cốc ăn sáng. Sau khi bổ sung acid folic, cơ thể cần có thời gian để chuyển đổi tất cả thành 5-MTHF, dạng hoạt tính sinh học của Folate. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra chậm và không hiệu quả ở một số người. Điều này có thể dẫn tới tình trạng thừa axit folic trong máu gây ra nhiều nguy cơ sức khỏe. Nên cẩn trọng với việc sử dụng TPBS có chứa axit folic và tìm kiếm sự trợ giúp từ bác sĩ ( Link ) Tăng cân khi mang thai Khi mang thai, cơ thể người mẹ thay đổi về nhiều mặt. Một trong những thay đổi đáng chú ý và quan trọng nhất là tăng cân. Nếu bà bầu không tăng đủ cân thì thai nhi sẽ gặp nguy hiểm. Tăng cân kém, đặc biệt là trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba, không chỉ có thể dẫn đến tình trạng trẻ sơ sinh nhẹ cân mà còn có thể dẫn đến tử vong ở trẻ sơ sinh và thiểu năng trí tuệ. Vì vậy, điều quan trọng đối với bà bầu là duy trì mức tăng cân hợp lý. Cân nặng của cô trước khi mang thai cũng có ảnh hưởng lớn. Cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh là một trong những dấu hiệu tốt nhất về sức khỏe tương lai của trẻ. Phụ nữ mang thai có cân nặng bình thường trước khi mang thai nên tăng tổng cộng từ 25 đến 35 pound trong toàn bộ thai kỳ. Số lượng chính xác mà người mẹ nên tăng thường phụ thuộc vào cân nặng ban đầu hoặc chỉ số khối cơ thể (BMI) của cô ấy. Bên dưới là khuyến nghị của CDC & Viện Y học Hoa Kỳ (CDCUS) cùng Bộ Y Tế VN ( Link ) ( Link ) ( Link ) BMI Dưới 18,5 (Thiếu cân) CDCUS khuyến nghị tăng 12.7–18kg, bộ Y Tế khuyến nghị tăng 25% cân nặng trước khi mang thai BMI 18,5–24,9 (Bình thường) CDCUS khuyến nghị tăng 11.5–16kg, Bộ Y Tế khuyến nghị tăng 10-12kg BMI 25,0–29,9 (Thừa cân) CDCUS khuyến nghị tăng 6.8–11.4kg, Bộ Y Tế khuyến nghị tăng 15% cân nặng trước khi mang thai BMI trên 30,0 Béo phì (tất cả các mức) CDCUS khuyến nghị chỉ tăng 5-9kg, Bộ Y Tế khuyến nghị tăng 15% cân nặng trước khi mang thai Cân nặng ban đầu trước khi mang thai dưới hoặc trên mức bình thường đều có thể dẫn đến các biến chứng khác nhau. Phụ nữ mang thai có chỉ số BMI trước khi mang thai dưới 20 có nguy cơ sinh non và trẻ nhẹ cân cao hơn. Phụ nữ mang thai có chỉ số BMI trước khi mang thai trên 30 có nguy cơ sinh mổ cao hơn. Vì vậy, tốt nhất là bạn nên có chỉ số BMI ở mức bình thường trước khi mang thai. Thông thường, phụ nữ tăng từ 0,5kg đến 2kg trong ba tháng đầu tiên. Sau đó, tốt nhất là không tăng quá 0,5kg mỗi tuần. Một số cân nặng mới là do sự phát triển của thai nhi, trong khi một số là do những thay đổi trong cơ thể người mẹ hỗ trợ quá trình mang thai. Phụ nữ mang thai nhiều hơn một thai nhi được khuyên nên tăng cân nhiều hơn nữa để đảm bảo sức khỏe cho thai nhi. Trọng lượng mà người mẹ tăng lên khi mang thai là 2/3 đến 3/4 mô nạc, bao gồm cả nhau thai và thai nhi. Tăng cân không phải là thay đổi lớn duy nhất. Phụ nữ mang thai cũng sẽ thấy ngực mình to ra và có xu hướng giữ nước. Thành phần cân nặng tăng lên của người mẹ bao gồm như sau:  Lượng máu: 1.3-1.8 kg Lượng protein và chất béo: 3.6-4.5kg Lượng chất lỏng: 3-4 1.3-1.4kg Ngực: 0.45-0.9kg  Đứa trẻ: 2.7-3.6kg Nhau thai: 0.45-0.9 kg Tử cung: 0.45-0.9 kg Nước ối: 0.9-1.3kg Tốc độ tăng cân cũng rất quan trọng. Nếu một người phụ nữ tăng cân quá chậm, bác sĩ có thể đề nghị tư vấn dinh dưỡng. Nếu người mẹ bầu tăng cân quá nhanh, đặc biệt là trong tam cá nguyệt thứ ba, đó có thể là kết quả của tình trạng phù nề hoặc sưng tấy do tích tụ chất lỏng dư thừa. Tăng cân nhanh chóng cũng có thể là do tăng tiêu thụ calo hoặc thiếu tập thể dục. Giảm cân sau khi mang thai Trong quá trình chuyển dạ, các bà mẹ mới sinh con sẽ giảm một phần cân nặng mà họ đã tăng lên khi mang thai và khi đứa bé sinh ra. Trong những tuần tiếp theo, họ tiếp tục giảm cân khi mất đi chất lỏng tích tụ và lượng máu trở lại bình thường. Một số nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng cân nặng của người mang thai sẽ được “reset” lại và việc cho con bú cũng giúp người mẹ mới giảm được một phần cân nặng. ( Link ) Những bà mẹ giữ số cân nặng hợp lý và tham gia các hoạt động thể chất thường xuyên trong thời kỳ mang thai cũng sẽ giảm cân dễ dàng hơn sau khi sinh. Tuy nhiên, những phụ nữ tăng cân nhiều hơn mức cần thiết khi mang thai thường giữ lại lượng cân dư thừa đó dưới dạng mỡ trong cơ thể. Điều này có thể dẫn đến các biến chứng như tăng huyết áp hoặc tiểu đường Loại 2 sau khi sinh và cả trong những lần mang thai sau này. Việc giảm cân để duy trì mức cân nặng khỏe mạnh là cần thiết nhưng việc giữ cân nặng khỏe mạnh ở thời kỳ tiền mang thai và tăng cân có kiểm soát trong lúc mang thai rất quan trọng. Nhu cầu dinh dưỡng Khi cơ thể người mẹ thay đổi, nhu cầu dinh dưỡng của bà cũng thay đổi theo. Phụ nữ mang thai phải tiêu thụ nhiều calo và chất dinh dưỡng hơn trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba so với những phụ nữ trưởng thành khác. Tuy nhiên, lượng calo khuyến nghị hàng ngày trung bình có thể thay đổi tùy thuộc vào mức độ hoạt động và cân nặng bình thường của người mẹ. Ngoài ra, phụ nữ mang thai nên chọn chế độ ăn đa dạng, chất lượng cao, tiêu thụ thực phẩm tươi và chế biến các bữa ăn giàu dinh dưỡng. Hấp là một trong những cách tốt nhất để nấu rau. Vitamin bị phá hủy khi nấu quá chín, trong khi rau và trái cây chưa nấu chín có hàm lượng vitamin cao nhất. Phụ nữ mang thai cũng được khuyến nghị dùng thuốc bổ sung trước khi sinh để đảm bảo hấp thụ đủ các vi chất dinh dưỡng cần thiết. Năng lượng và chất dinh dưỡng đa lượng ( Link ) Trong tam cá nguyệt đầu tiên, phụ nữ mang thai có nhu cầu năng lượng giống như bình thường và nên tiêu thụ cùng lượng calo như bình thường. Tuy nhiên, khi thai kỳ tiến triển, phụ nữ phải tăng lượng calo nạp vào. Theo IOM, phụ nữ nên tiêu thụ thêm 340 calo mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ hai và thêm 450 calo mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ ba. Điều này một phần là do sự gia tăng quá trình trao đổi chất, diễn ra trong thai kỳ và góp phần làm tăng nhu cầu năng lượng. Phụ nữ có thể dễ dàng đáp ứng những nhu cầu tăng lên này bằng cách tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu dinh dưỡng hơn. Lượng carbohydrate khuyến nghị hàng ngày, hay RDA, trong thời kỳ mang thai là khoảng 175 đến 265 gam mỗi ngày để thúc đẩy sự phát triển não bộ của thai nhi. Các nguồn thực phẩm tốt nhất cho phụ nữ mang thai bao gồm bánh mì và ngũ cốc nguyên hạt, gạo lứt, rau củ, các loại đậu và trái cây. Những loại carbohydrate này và các loại carbohydrate chưa tinh chế khác cung cấp chất dinh dưỡng, chất thực vật, chất chống oxy hóa và thêm 3mg chất xơ/ngày được khuyến nghị trong thời kỳ mang thai. Những thực phẩm này cũng giúp xây dựng nhau thai và cung cấp năng lượng cho sự phát triển của thai nhi. Trong thời kỳ mang thai, cần thêm protein để tổng hợp các mô mới của mẹ và thai nhi. Protein xây dựng cơ và các mô khác, enzyme, kháng thể và hormone ở cả mẹ và thai nhi. Protein bổ sung cũng hỗ trợ tăng thể tích máu và sản xuất nước ối. RDA của protein trong thời kỳ mang thai là 71 gam mỗi ngày, cao hơn 25 gam so với khuyến nghị thông thường. Protein nên có nguồn gốc từ các nguồn lành mạnh, chẳng hạn như thịt đỏ nạc, gia cầm, các loại đậu, quả hạch, hạt giống, trứng và cá. Sữa ít béo và các sản phẩm từ sữa khác cũng cung cấp protein, cùng với canxi và các chất dinh dưỡng khác. Không có khuyến nghị cụ thể nào về chất béo trong thai kỳ, ngoài việc tuân theo các hướng dẫn về chế độ ăn uống thông thường. Mặc dù vậy, bạn nên tăng lượng axit béo thiết yếu là axit linoleic và axit ∝-linolenic vì chúng được đưa vào nhau thai và các mô của thai nhi. Chất béo nên chiếm 25 đến 35 phần trăm lượng calo hàng ngày và lượng calo đó nên đến từ chất béo lành mạnh, chẳng hạn như quả bơ và cá hồi. Phụ nữ mang thai không nên áp dụng chế độ ăn rất ít chất béo vì sẽ khó đáp ứng được nhu cầu về axit béo thiết yếu và vitamin tan trong chất béo. Axit béo rất quan trọng trong thai kỳ vì chúng hỗ trợ sự phát triển não bộ và mắt của em bé. Lượng chất lỏng đưa vào cơ thể cũng phải được theo dõi. Theo IOM, phụ nữ mang thai nên uống 2,3 lít (khoảng 10 cốc) chất lỏng mỗi ngày để cung cấp đủ chất lỏng cho quá trình sản xuất máu. Uống chất lỏng trong và sau khi hoạt động thể chất hoặc khi trời nóng và ẩm bên ngoài cũng rất quan trọng để thay thế lượng chất lỏng bị mất qua mồ hôi. Sự kết hợp giữa chế độ ăn nhiều chất xơ và nhiều chất lỏng cũng giúp ngăn ngừa táo bón, một tình trạng thường gặp trong thai kỳ. ( Link ) Vitamin ( Link )  và Khoáng chất ( Link ) Nhu cầu hàng ngày của phụ nữ không mang thai thay đổi khi bắt đầu mang thai. Nhiều người sẽ nghĩ đến việc sử dụng TPBS, tuy nhiên, hầu hết các nhu cầu này cần được đáp ứng bằng chế độ ăn uống lành mạnh. Đối với phụ nữ mang thai, RDA của hầu hết các loại vitamin và khoáng chất đều tăng. Các vi chất dinh dưỡng liên quan đến việc xây dựng bộ xương (vitamin D, canxi, phốt pho và magie) rất quan trọng trong thai kỳ để hỗ trợ sự phát triển xương của thai nhi. Trong thực tế, đa phần nhiều phụ nữ thường không tiêu thụ đủ lượng cần thiết và khi mang thai, hay chuẩn bị mang thai, họ cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu theo khuyến nghị. Với những bà mẹ mang thai ở độ tuổi thiếu niên (dưới 16) nhu cầu này có thể cao hơn để đáp ứng cho sức khỏe và sự phát triển của chính họ bên cạnh sự phát triển của thai nhi. Nhu cầu về tất cả các loại vitamin B tăng lên trong thai kỳ. Vitamin B6 đầy đủ hỗ trợ quá trình trao đổi chất của các axit amin, trong khi cần nhiều vitamin B12 hơn để tổng hợp các tế bào hồng cầu và DNA. Chúng ta cũng cần nhớ lại rằng, nhu cầu folate trong thai kỳ tăng lên 600 microgam mỗi ngày để ngăn ngừa dị tật ống thần kinh. Vi chất dinh dưỡng này rất quan trọng cho sự phát triển của thai nhi vì nó cũng giúp sản xuất thêm máu mà cơ thể phụ nữ cần trong suốt thai kỳ. Kẽm bổ sung rất quan trọng cho sự phát triển của tế bào và sự tổng hợp protein. Nhu cầu về vitamin A cũng tăng lên và lượng sắt bổ sung rất quan trọng vì lượng máu cung cấp trong thai kỳ tăng lên và để hỗ trợ thai nhi và nhau thai. Sắt là một chất rất thiết yếu cho việc tạo hồng cầu nhưng hay bị bỏ qua trong nhiều trường hợp. Ngay cả khi phụ nữ mang thai có chế độ ăn uống lành mạnh, vẫn cần phải xem xét kỹ chế độ ăn để bổ sung sắt dưới dạng muối sắt khi cần thiết. Đối với hầu hết các khoáng chất khác, lượng khuyến nghị tương tự như đối với phụ nữ không mang thai. Ngoài ra, bà mẹ mang thai nên tránh vượt quá khuyến nghị Giới hạn trên. Dùng viên bổ sung liều cao có thể dẫn đến lượng vi chất dinh dưỡng vượt quá mức, chẳng hạn như vitamin A và kẽm, có thể gây ra tác dụng độc hại và cũng có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh. Lưu ý ăn uống trong thời kỳ mang thai Mặc dù phụ nữ mang thai có nhu cầu về năng lượng, vitamin và khoáng chất tăng lên, nhưng mức tăng năng lượng thực tế không cần quá cao nên chúng ta cần phải kiểm soát tốt để tránh tăng cân quá mức. Việc lựa chọn các thực phẩm giàu dinh dưỡng, có tỷ lệ chất dinh dưỡng cao (nutrient-dense) so với lượng calo, là điều cần thiết. Ví dụ về thực phẩm giàu dinh dưỡng bao gồm trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, đậu Hà Lan, đậu, trứng, sữa ít béo và thịt nạc. Phụ nữ mang thai có thể đáp ứng hầu hết nhu cầu tăng lên của mình thông qua chế độ ăn uống lành mạnh. Tuy nhiên, bác sĩ có thể khuyến nghị dùng các sản phẩm bổ sung trước khi sinh để đảm bảo hấp thụ đủ sắt và folate. Sau đây là một số tips bổ sung dinh dưỡng chế độ ăn uống dành cho phụ nữ mang thai.[ Link ] [ Link ]: Ăn thực phẩm giàu sắt hoặc tăng cường sắt, bao gồm thịt hoặc các loại thịt thay thế, bánh mì và ngũ cốc, để giúp đáp ứng nhu cầu sắt tăng lên và ngăn ngừa thiếu máu do thiếu sắt. Thêm các thực phẩm giàu vitamin C, chẳng hạn như nước cam, bông cải xanh hoặc dâu tây, để tăng cường hấp thụ sắt. Ăn chế độ ăn cân bằng, bao gồm trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, thực phẩm giàu canxi, thịt nạc và cá biển nấu chín (trừ các loại cá có hàm lượng thủy ngân cao, chẳng hạn như cá kiếm và cá mập, hàu). Lưu ý uống thêm nước. Thực phẩm cần tránh Một số chất có thể gây hại cho thai nhi đang phát triển cần phải tránh trong suốt thai kỳ. Một số chất có hại đến mức phụ nữ cần loại bỏ việc dùng chúng ngay lập tức cả khi cô ấy mới nghi ngờ rằng mình có thể mang thai. Ví dụ, việc tiêu thụ đồ uống có cồn dẫn đến một loạt các bất thường nằm trong phạm vi các rối loạn phổ rượu ở thai nhi. Chúng bao gồm các khiếm khuyết về khả năng học tập và chú ý, khuyết tật tim và các đặc điểm khuôn mặt bất thường. Rượu đi vào thai nhi qua dây rốn và có thể làm chậm sự phát triển của thai nhi, gây tổn thương não hoặc thậm chí dẫn đến sảy thai. Tác động của rượu nghiêm trọng nhất trong tam cá nguyệt đầu tiên, khi các cơ quan đang phát triển. Không có lượng rượu nào là an toàn để phụ nữ mang thai có thể uống. Mặc dù phụ nữ trong quá khứ có thể đã tham gia vào các hành vi như uống rượu hoặc hút thuốc lá, cần tránh hoàn toàn các chất đó để bảo vệ sức khỏe của thai nhi. ( Link ) Phụ nữ mang thai cũng nên hạn chế lượng caffeine nạp vào cơ thể. Cần lưu ý rằng, caffeine không chỉ có trong cà phê mà còn có trong trà, cola, ca cao, sô cô la và một số loại thuốc giảm đau không kê đơn. Một số nghiên cứu cho thấy lượng caffeine rất cao có liên quan đến trẻ sơ sinh bị thiếu cân. Tạp chí Sản phụ khoa Hoa Kỳ đã công bố một báo cáo, trong đó phát hiện ra rằng những phụ nữ tiêu thụ hơn 200 miligam caffeine mỗi ngày (có trong khoảng 290ml cà phê hoặc 730ml trà) sẽ làm tăng nguy cơ sảy thai [ Link ]. Tiêu thụ lượng lớn caffeine cũng ảnh hưởng đến bà mẹ đang mang thai, dẫn đến cáu kỉnh, lo lắng và mất ngủ. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng một lượng nhỏ caffeine mỗi ngày là an toàn (khoảng một tách cà phê 230ml mỗi ngày hoặc ít hơn). Tuy nhiên, không nên vượt quá lượng đó. Bệnh do thực phẩm Đối với cả mẹ và con, bệnh do thực phẩm có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Ví dụ, bệnh do thực phẩm gây ra bởi vi khuẩn Listeria monocytogenes có thể gây sảy thai tự nhiên và viêm màng não ở thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. Theo CDC Hoa Kỳ, phụ nữ mang thai có khả năng bị nhiễm căn bệnh này, được gọi là bệnh listeriosis, cao gấp 20 lần so với người lớn khỏe mạnh không mang thai. Các triệu chứng bao gồm đau đầu, đau nhức cơ, buồn nôn, nôn và sốt. Nếu nhiễm trùng lan đến hệ thần kinh, có thể dẫn đến cổ bị cứng lại, co giật hoặc cảm giác mất phương hướng [ Link ]. Thực phẩm có nhiều khả năng chứa vi khuẩn nên tránh là các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng, pho mát mềm, cũng như hải sản hun khói, xúc xích, pa tê, thịt nguội và thịt chưa nấu chín. Để tránh tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm, phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú nên thực hiện các biện pháp sau: Rửa sạch kỹ trái cây và rau trước khi ăn Giữ thực phẩm đã nấu chín và sẵn sàng để ăn tách biệt với đồ sống  Bảo quản thực phẩm ở nhiệt độ 4° C trở xuống trong tủ lạnh và ở nhiệt độ −18° C trong tủ đông Trữ lạnh thực phẩm dễ hỏng, thực phẩm chế biến sẵn trong vòng hai giờ sau khi chế biến hoặc ăn không hết Vệ sinh tủ lạnh thường xuyên và lau sạch mọi vết dơ do thức ăn đổ ra  Kiểm tra ngày hết hạn của thực phẩm đã lưu trữ một lần mỗi tuần Nấu xúc xích, thịt nguội (ví dụ: thịt nguội/thịt hộp) và hải sản hun khói ở nhiệt độ >71 độ C  Luôn luôn cẩn trọng để tránh tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm. Các chất kim loại nặng, đặc biệt là thủy ngân, chì và cadmium, gây nguy cơ lớn cho bà mẹ và thai nhu. Do đó, rau phải được rửa sạch hoặc bỏ vỏ để tránh tiêu thụ kim loại nặng. Duy trì tình trạng có đủ lượng sắt giúp phụ nữ không hấp thụ các kim loại nặng này vì nó cung cấp thêm một mức độ bảo vệ. Phụ nữ mang thai có thể ăn cá, lý tưởng nhất là 220g đến 340g các loại khác nhau mỗi tuần. Phụ nữ mang thai rất cần tránh các loại cá có hàm lượng metyl thủy ngân rất cao, chẳng hạn như cá mập, cá kiếm, hoặc các loại sò ốc tươi sống.  Hoạt động thể chất trong thời kỳ mang thai Đối với hầu hết phụ nữ mang thai, hoạt động thể chất là điều bắt buộc và được khuyến nghị trong hầu hết các hướng dẫn sức khỏe trên thế giới [ Link ] [ Link ]. Tập thể dục thường xuyên với cường độ vừa phải, khoảng ba mươi phút mỗi ngày hầu hết các ngày trong tuần, giúp cho tim và phổi khỏe mạnh. Tập thể dục cũng giúp cải thiện giấc ngủ, tăng cường tâm trạng.  Ngoài ra, những phụ nữ tập thể dục trong thời kỳ mang thai sẽ ít khó chịu hơn và có thể dễ dàng giảm cân sau khi sinh con hơn. Đi bộ nhanh, bơi lội hoặc lớp thể dục nhịp điệu dành cho những bà mẹ tương lai đều là những loại hình tốt. Những phụ nữ khỏe mạnh đã tham gia các hoạt động mạnh trước khi mang thai, chẳng hạn như chạy bộ, nếu muốn tiếp tục làm như vậy trong thời kỳ mang thai cần phải thảo luận về kế hoạch tập thể dục với bác sĩ. ( Link ) Phụ nữ mang thai nên tránh các trò tiêu khiển có thể gây thương tích, chẳng hạn như bóng đá, bóng bầu dục và các môn thể thao đối kháng khác hoặc các hoạt động có thể dẫn đến té ngã. Tốt nhất là phụ nữ mang thai không nên tham gia một số môn thể thao nhất định đòi hỏi bạn phải nhảy hoặc đổi hướng nhanh chóng chẳng hạn như quần vợt. Môn lặn biển cũng nên tránh vì nó có thể khiến thai nhi bị giảm huyết áp. Tình trạng có khả năng gây tử vong này là kết quả của việc giảm áp suất nhanh chóng khi thợ lặn nổi lên quá nhanh.   Xem thêm bài blog về tập luyện cho phụ nữ mang thai tại đây . Biến chứng trong thai kỳ Các bà mẹ tương lai có thể gặp phải các biến chứng khác nhau trong suốt quá trình mang thai. Chúng bao gồm một số tình trạng bệnh lý có thể ảnh hưởng lớn đến thai kỳ nếu không được điều trị. Được biết tới nhiều nhất là tăng huyết áp thai kỳ và tiểu đường thai kỳ đều có liên quan đến chế độ ăn uống và dinh dưỡng. Tăng huyết áp thai kỳ là tình trạng huyết áp cao trong nửa sau của thai kỳ. Những người mới mang thai lần đầu có nguy cơ cao hơn, cùng với đó là những phụ nữ có mẹ hoặc chị gái bị tăng huyết áp thai kỳ, đa thai, phụ nữ có tiền sử huyết áp cao hoặc bệnh thận và phụ nữ thừa cân hoặc béo phì khi mang thai. Tăng huyết áp có thể ngăn việc nhau thai nhận đủ máu, khiến em bé nhận được ít oxy và chất dinh dưỡng hơn. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu cân khi sinh. Tin vui là hầu hết phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ vẫn có thể sinh con khỏe mạnh nếu tình trạng này được phát hiện và điều trị sớm. Một số yếu tố nguy cơ có thể được kiểm soát, chẳng hạn như chế độ ăn uống, trong khi những yếu tố khác thì không, chẳng hạn như tiền sử gia đình. Nếu không được điều trị, tăng huyết áp thai kỳ có thể dẫn đến biến chứng nghiêm trọng gọi là giật tiền sản và sản giật, đôi khi được gọi là nhiễm độc thai kỳ. Rối loạn này được đánh dấu bằng huyết áp cao và protein trong nước tiểu và liên quan đến sưng tấy. Để ngăn ngừa giật tiền sản, WHO khuyến cáo tăng lượng canxi cho phụ nữ ăn chế độ ăn ít vi chất dinh dưỡng này, dùng liều thấp aspirin (75 miligam) và tăng cường kiểm tra trước khi sinh. WHO không khuyến cáo hạn chế lượng muối ăn trong thời kỳ mang thai với mục đích ngăn ngừa giật tiền sản và các biến chứng của nó [ Link ]. Khoảng 4% phụ nữ mang thai mắc phải tình trạng được gọi là tiểu đường thai kỳ , đây là tình trạng dung nạp glucose bất thường. Cơ thể trở nên kháng insulin, hormone cho phép các tế bào hấp thụ glucose từ máu. Tiểu đường thai kỳ thường được chẩn đoán vào khoảng tuần 24 đến tuần 26 nhưng tình trạng này cũng có thể phát triển muộn hơn trong thai kỳ. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh này bao gồm đói bụng dữ dội, khát nước hoặc mệt mỏi. Nếu lượng đường trong máu không được theo dõi và điều trị đúng cách, em bé có thể tăng quá nhiều cân và cần phải sinh mổ. Chế độ ăn uống và hoạt động thể chất thường xuyên có thể giúp kiểm soát tình trạng này. Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường thai kỳ cũng cần tiêm insulin hàng ngày để tăng cường hấp thụ glucose từ máu và thúc đẩy quá trình lưu trữ glucose dưới dạng glycogen trong các tế bào gan và cơ. Bệnh tiểu đường thai kỳ thường khỏi sau khi sinh, mặc dù những phụ nữ mắc phải tình trạng này có nhiều khả năng mắc bệnh tiểu đường loại 2 sau này, đặc biệt nếu họ bị thừa cân.[ Link ].

Dinh dưỡng thai kỳ: Tăng & giảm cân
bottom of page