top of page

My Items

I'm a title. ​Click here to edit me.

Nước kiềm hóa trị ung thư ? Sự thật cần lưu ý

Nước kiềm hóa trị ung thư ? Sự thật cần lưu ý

Có rất nhiều lầm tưởng xung quanh nước kiềm và những lợi ích sức khỏe được gắn với sản phẩm công nghiệp này. Một số lầm tưởng phổ biến nhất bao gồm nước kiềm có thể làm chậm quá trình lão hóa, ngăn ngừa ung thư, giảm nguy cơ mắc bệnh tim và ngăn ngừa mất xương (loãng xương). Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học để hỗ trợ những tuyên bố này. Cơ thể điều chỉnh mức độ pH để duy trì sự cân bằng giữa axit và kiềm. Phạm vi bình thường của độ pH trong cơ thể là từ 7,35-7,45, tính ra sẽ hơi mang tính kiềm. Cơ thể có một số cơ chế để duy trì sự cân bằng này, bao gồm hệ hô hấp, hệ tiết niệu và các chất đệm hóa học ( Link ). Hệ thống hô hấp giúp điều chỉnh độ pH bằng cách kiểm soát lượng oxy nạp vào và lượng carbon dioxide thải ra qua phổi. Khi cơ thể có tính axit (độ pH thấp), nó có thể làm giảm nồng độ CO2 bằng cách tăng hoạt động thở và thải ra CO2, điều này làm tăng độ pH. Ngược lại, nếu cơ thể bị kiềm hóa (pH cao), nó có thể cố gắng bù đắp bằng cách thở chậm lại để làm tăng nồng độ CO2. Hệ thống tiết niệu cũng đóng vai trò điều chỉnh độ pH bằng cách lọc máu qua thận để loại bỏ hoặc giữ lại axit và bazơ. Nếu cơ thể bị nhiễm toan, thận sẽ cố gắng bài tiết ion H+ và giữ lại bicarbonate (HCO3-), trong khi nếu cơ thể đang bị nhiễm kiềm, thận sẽ cố gắng giữ lại ion H+ và bài tiết bicarbonate. Chất đệm hóa học là một cơ chế khác giúp điều chỉnh nồng độ pH trong cơ thể. Những chất đệm này là những chất có thể hấp thụ hoặc giải phóng các ion hydro để giúp duy trì mức độ pH ổn định. Nhìn chung, cơ thể có một số cơ chế để điều chỉnh mức độ pH và duy trì sự cân bằng giữa độ axit và độ kiềm. Các cơ chế này hoạt động cùng nhau để giữ cho cơ thể hoạt động tối ưu. Điều quan trọng đầu tiên cần lưu ý là nồng độ pH trong máu của bạn không thể thay đổi đáng kể thông qua chế độ ăn uống, kể cả bằng cách uống nước kiềm. Thận và phổi của bạn hoạt động để đảm bảo rằng mức độ này nằm trong phạm vi rất nghiêm ngặt là 7,35-7,45 đối với mức độ pH của nó, đó là những gì bạn cần để hoạt động lành mạnh ( Link ). Trong một bài đánh giá có hệ thống lớn (kết hợp 252 nghiên cứu) xem xét nước kiềm và bệnh ung thư, dường như không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy việc tiêu thụ loại nước này có bất kỳ ảnh hưởng nào đến việc bắt đầu (phát triển) hoặc điều trị (tiến triển) ung thư. Chỉ trong một nghiên cứu có mối liên hệ được tìm thấy, nhưng mối liên hệ đó rất không đáng kể (giữa độ pH và ung thư bàng quang) ( Link ). Chế độ ăn Kiềm hóa trị ung thư ? Chế độ ăn kiêng kiềm là một chế độ ăn kiêng phổ biến dựa trên lý thuyết rằng việc ăn một số loại thực phẩm có thể thay đổi nồng độ axit của cơ thể, còn được gọi là mức độ pH. Một số người tin rằng việc thay đổi nồng độ pH của cơ thể có thể cải thiện sức khỏe của bạn và giúp bạn giảm cân hoặc thậm chí ngăn ngừa ung thư. Ý tưởng này đã thu hút được sự chú ý vào năm 2002 với việc xuất bản một loạt sách về pH Miracle của Robert O. Young, người đã thúc đẩy lý thuyết về chế độ ăn có tính kiềm hoặc độ pH cao để điều trị và ngăn ngừa bệnh tật, bao gồm cả ung thư. Young sau đó đã phải ngồi tù và được lệnh phải trả hơn 100 triệu đô la cho một người mắc bệnh ung thư đã chọn không điều trị ung thư theo hướng dẫn lâm sáng tiêu chuẩn và thay vào đó tuân theo lý thuyết của ông về chế độ ăn kiêng ( Link ). Theo chuyên gia dinh dưỡng lâm sàng cao cấp tại Trung tâm Ung thư MD Anderson, không có cách nào thực phẩm bạn ăn có thể làm thay đổi mức độ pH trong máu của bạn. Độ pH của cơ thể là một hệ thống được điều chỉnh rất chặt chẽ. Nếu bạn thay đổi chế độ ăn uống của mình, bạn có thể thấy độ pH của nước bọt hoặc nước tiểu thay đổi vì đây là những chất thải, nhưng bạn không bao giờ có thể ăn đủ để nó thực sự tác động đến máu của bạn . Một số nghiên cứu trên tế bào đã chỉ ra rằng môi trường axit giúp tế bào ung thư phát triển so với khi ở môi trường có tính kiềm. Vì vậy, ý tưởng là chế độ ăn nhiều thực phẩm có tính kiềm (độ pH cao) và ít thực phẩm có tính axit sẽ làm tăng mức độ pH của cơ thể (làm cho cơ thể có tính kiềm hơn) và ngăn ngừa hoặc thậm chí chữa khỏi bệnh ung thư. Tuy nhiên, những nghiên cứu này được tiến hành trên các tế bào ung thư trên "một cái đĩa" và không đại diện cho bản chất phức tạp của cách các khối u hoạt động trong cơ thể con người ( Link ). Và nghiên cứu về khối u cũng rất khác nghiên cứu với nghiên cứu trên cấp độ tế bào ( Link ). Thêm vào đó, một điều cần lưu ý rằng, tế bào ung thư và khối u có xu thế làm gia tăng tính axit của môi trường xung quanh nó để lớn mạnh và xâm thực các tế bào khác để lây lan, phát triển. ( Link ). Cơ chế cho việc này là chưa rõ ràng nhưng không thể suy luận thành môi trường axit làm nảy sinh tế bào ung thư ( Link ). Các thủ thuật câu chữ của truyền thông đã tạo ra nhiều lầm tưởng xung quanh chế độ ăn kiêng kiềm hóa hoặc uống nước kiểm hóa và những lợi ích được cho là của nó đối với việc phòng ngừa và điều trị ung thư. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là không có bằng chứng khoa học nào chứng minh cho những tuyên bố này. Trên thực tế, nhiều lầm tưởng trong số này đã được các nguồn có uy tín lật tẩy ( Link ) ( Link ). Cũng cần lưu ý rằng các tế bào ung thư có thể phát triển trong cả môi trường axit và kiềm. Khi nghiên cứu các tế bào ung thư được nuôi cấy trong đĩa (trong ống nghiệm), chúng sẽ phát triển nhanh hơn trong môi trường axit. Ngược lại, chúng bị ức chế trong môi trường kiềm (cũng như tế bào bình thường). Từ đó mới dẫn đến quan niệm sai lầm rằng môi trường axit trong cơ thể gây phát triển ung thư. Củng tư nghiên cứu xét nghiệm, người ta đã lưu ý rằng khu vực xung quanh khối u ung thư (microenvironment) có xu hướng có tính axit (Link). Điều này chỉ áp dụng phổ biến với những loại ung thư đã được nghiên cứu chứ không đồng nghĩa cho tất cả. Tóm lại, trong khi chế độ ăn kiêng kiềm hóa có thể có một số lợi ích sức khỏe do chú trọng vào việc ăn nhiều trái cây và rau quả và cắt giảm thực phẩm chế biến sẵn. Và tất nhiên việc uống đủ nước luôn được khuyến khích bao gồm cả nước kiềm hóa. Tuy nhiên không có bằng chứng khoa học nào chứng minh việc sử dụng nó như một biện pháp điều trị hoặc phòng ngừa ung thư, kể cả với các liệu pháp kiềm hóa (alkaline therapy) bằng nhiều hình thức ( Link ). Điều quan trọng bạn cần luôn tham khảo ý kiến các bác sĩ đang trị bệnh cho bạn hoặc chuyên gia dinh dưỡng trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi nào đối với chế độ ăn uống của mình.

"Tập gym" cho "bà bầu": Những Lưu ý

"Tập gym" cho "bà bầu": Những Lưu ý

Trong huấn luyện thể chất, luôn phân ra nhóm đối tượng thông thường và nhóm dân số đặc biệt. Trong đó nhóm dân số đặc biệt cần đến sự trợ giúp, giám sát tại chỗ và chăm sóc đặc biệt. Nhấn mạnh điều này để tránh việc các bạn PT tự ý đưa ra khuyến nghị về việc tập luyện hay dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai. Thời đại chạy đua nội dung, các KOL/Fitness Influencer có thể tạo ra cảm giác dễ dàng với các nội dung về tập luyện, dinh dưỡng, nhưng bạn hãy luôn cẩn trọng và tìm lời khuyên từ các chuyên gia huấn luyện hoặc bác sỹ có kinh nghiệm. Đừng quên rằng, Huấn luyện hỗ trợ sinh nở cũng là một chuyên ngành riêng và không phải tất cả PT hay KOL nào cũng có đủ kiến thức và kinh nghiệm cho mọi trường hợp. Khi mang thai, cơ thể người phụ nữ trải qua nhiều thay đổi và điều quan trọng là phải duy trì lối sống lành mạnh để hỗ trợ cả mẹ và bé. Viện Dinh dưỡng và Ăn kiêng khuyến nghị tăng cân phù hợp, chế độ ăn uống cân bằng, tập thể dục thường xuyên và bổ sung vitamin và khoáng chất thích hợp và kịp thời trong thai kỳ ( Link ). Với người đang mang thai, điều quan trọng là phải ăn một chế độ ăn uống cân bằng bao gồm nhiều loại thực phẩm lành mạnh. Một số thực phẩm lành mạnh nên ăn khi mang thai bao gồm các sản phẩm từ sữa, các loại đậu, khoai lang, cá hồi, trứng, rau lá xanh, thịt nạc, quả mọng, ngũ cốc nguyên hạt, bơ, trái cây sấy khô, dầu gan cá và nước. Những thực phẩm này cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu như protein, canxi, sắt, folate và các vitamin thiết yếu quan trọng cho sức khỏe của cả mẹ và bé. Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng đã đăng ký để lập một kế hoạch dinh dưỡng cá nhân trong thời kỳ mang thai. Mức tăng cân được khuyến nghị ? Mức tăng cân được khuyến nghị trong thời kỳ mang thai phụ thuộc vào chỉ số khối cơ thể (BMI) trước khi mang thai của bạn và việc bạn đang mang thai một hay nhiều em bé. Bạn nên tăng khoảng 1 đến 2kg trong 3 tháng đầu tiên và 0,5kg mỗi tuần trong thời gian còn lại của thai kỳ. Phạm vi tăng cân có thể dựa vào BMI hiện tại của bạn: thiếu cân (BMI dưới 18,5), cần tăng 13kg đến 22kg; cân nặng bình thường (BMI 18,5 đến 24,9), 11kg đến 15kg và nếu bạn thừa cân (BMI 25 đến 29,9), con số khuyến nghị là tăng chỉ từ 7kg đến 11kg. Trường hợp song sinh, bạn nên tăng từ 15kg đến 18kg. Việc tăng cân cần tập trung đến sức khỏe của em bé và không gây béo cho người mẹ. Số cân nặng tăng lên quá mức có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và bé. Để kiểm soát việc tăng cân khi mang thai, bạn có thể làm theo các mẹo sau: Ăn một chế độ ăn uống cân bằng, thân thiện với thai kỳ, giàu chất béo hoặc protein lành mạnh, chẳng hạn như các loại hạt, đậu, các loại đậu, cá béo, thịt nạc và sữa. Chọn nhiều nguồn cung cấp chất xơ, như rau tươi, trái cây và ngũ cốc. Ăn năm đến sáu bữa nhỏ mỗi ngày. Chuẩn bị sẵn đồ ăn nhanh, dễ làm, chẳng hạn như các loại hạt, nho khô, phô mai và bánh quy giòn, trái cây sấy khô và kem hoặc sữa chua. Làm việc với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn hoặc chuyên gia dinh dưỡng đã đăng ký để duy trì chế độ ăn uống lành mạnh và tránh tăng cân quá mức. Hãy hoạt động thể chất. Theo dõi mức tăng cân khi mang thai của bạn ngay từ đầu và thường xuyên trong suốt thai kỳ và so sánh tiến độ của bạn với các mức tăng cân lành mạnh được khuyến nghị. Hoạt động thể chất khi mang bầu Các tổ chức y tế và chăm sóc sức khỏe đều khuyến khích việc giữ bản thân năng động khi mang thai ( Link ) ( Link ). Tập thể dục khi mang thai có thể mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho bạn và em bé. Nó có thể làm giảm những khó chịu thông thường như đau lưng, táo bón, đầy hơi và sưng tấy. Nó cũng có thể cải thiện tâm trạng, năng lượng và chất lượng giấc ngủ của bạn. Tập thể dục có thể ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh tiểu đường thai kỳ và giảm nguy cơ tiền sản giật và sinh mổ. Tập thể dục cũng có thể thúc đẩy cơ bắp săn chắc, sức mạnh, sức bền và tăng cân lành mạnh. Một số bài tập được khuyến nghị khi mang thai là giãn cơ, yoga, đi bộ và bơi lội. Một kế hoạch tập luyện khi mang thai nên bao gồm: Chia ra làm 3 phân kỳ 3 tháng (trimester) (tháng 1-tháng 3, tháng 4-tháng thứ 6 và tháng thứ 7 đến khi sinh) do người mẹ sẽ thay đổi rõ rệt qua từng phân kỳ này. Ít nhất 30 phút tập thể dục cường độ vừa phải trong hầu hết các ngày trong tuần, nếu không muốn nói là tất cả. Đi bộ, cung cấp điều kiện sức bền vừa phải với ít căng thẳng nhất cho các khớp của bạn, là một bài tập tuyệt vời cho người mới bắt đầu. Các lựa chọn tốt khác bao gồm bơi lội, thể dục nhịp điệu tác động thấp và đạp xe đạp tại chỗ. Đặt mục tiêu tập thể dục 4 ngày trong một tuần với ít nhất 30 phút. Đặt mục tiêu tập thể dục ít nhất 3 giờ/tuần để tối đa hóa lợi ích, đảm bảo bao gồm các bài tập tim mạch như đi bộ, đạp xe hoặc bơi lội. Đặt mục tiêu tập luyện kháng lực 2-4 lần/tuần với các bài tập nhẹ, pilates hoặc yoga. TIPS Chia các phần tập luyện ra thành các session nhỏ 5-10 phút trong ngày Tất cả những hoạt động thể chất thông thường như đi lại, rửa chén bát, di chuyển đến chỗ làm... đều có tác dụng. Có hơn là không ! Cố gắng tập các bài tập sàn chậu (pelvic floor) mỗi ngày trước và trong khi bạn mang thai,và bắt đầu lại ngay khi có thể sau khi sinh. Các bài tập sàn chậu có thể giúp duy trì sự linh hoạt của cột sống và khả năng kiểm soát sàn chậu trong thời kỳ mang thai ( Link ). Một số bài tập được đề xuất bao gồm nghiêng xương chậu (pelvic tilt), giang chân sang bên (leg abduction), squat và nâng đầu gối. Lưu ý học cách thực hiện những bài tập này một cách chính xác. Về độ căng thẳng, hãy thực hiện các bài tập mà bạn vẫn có thể trò chuyện vui vẻ ngay sau tập Điều chỉnh mức độ tập theo các phân kỳ 3 tháng khi trọng lượng bạn và em bé tăng lên Những điều cần chú ý Uống nhiều nước và đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng và năng lượng. Tránh căng thẳng nhiệt/tăng thân nhiệt. Hoạt động thể chất tốt nhất nên được thực hiện trong một môi trường mát mẻ. Tránh các hoạt động thể chất ở độ cao trên 2000m trừ khi đã được huấn luyện hoặc bạn vốn sống ở vùng có độ cao trên Luôn mang giày phù hợp, quần áo không gò bó, và một chiếc áo ngực hỗ trợ an toàn khi mang thai. Nếu trời nóng, hãy mặc quần áo rộng làm từ vải 'thoáng khí' Tránh các bài tập có nguy cơ bị va chạm với người/thiết bị hoặc dễ trượt ngã Sau 28 tuần không nên thực hiện các bài tập nằm ngửa lưng xuống Chống chỉ định Nếu bạn có bất kỳ điều nào sau đây, bạn không nên tập thể dục cho đến khi nhận được lời khuyên cá nhân từ chuyên gia y tế của bạn: Cổ tử cung không đủ năng lực Vỡ ối, sinh non Chảy máu dai dẳng trong tháng thứ 3-thứ 6 hoặc tháng 6 - tháng 9 Biến chứng nhau tiền đạo (placenta previa) Tiền sản giật (Pre-eclampsia) Bằng chứng về hạn chế tăng trưởng trong tử cung Đa thai (sinh ba hoặc cao hơn) Bệnh tiểu đường loại 1 được kiểm soát kém, tăng huyết áp hoặc bệnh tuyến giáp Rối loạn tim mạch, hô hấp hoặc các vấn đề nghiêm trọng khác. Các dấu hiệu cần ngừng tập Nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào sau đây trong khi hoạt động thể chất, hãy dừng lại và tìm kiếm lời khuyên từ chuyên gia sức khỏe trước khi tiếp tục với bất kỳ hoạt động nào: Đau ở ngực Khó thở dai dẳng Không khỏe hơn khi nghỉ ngơi Đau đầu dữ dội Chóng mặt dai dẳng / cảm thấy ngất xỉu mà không trở nên tốt hơn lúc nghỉ Co thắt tử cung đau thường xuyên Chảy máu âm đạo Mất chất lỏng liên tục từ âm đạo - cho thấy có thể màng ối bị vỡ Điều quan trọng là luôn tham khảo ý kiến ​​bác sĩ, có sự trợ giúp từ huấn luyện viên chuyên nghiệp có kinh nghiệm, trước khi bắt đầu bất kỳ kế hoạch tập luyện nào trong thai kỳ. Họ có thể cung cấp các đề xuất được cá nhân hóa dựa trên nhu cầu cá nhân của bạn. Thời gian tập luyện trở lại sau sinh Thời gian tiếp tục hoạt động thể chất sau khi sinh con là khác nhau cho tất cả mọi người. Sự trở lại dần dần với mức độ hoạt động được khuyến nghị thường được coi là an toàn sau khi kiểm tra sau sinh sáu tuần với chuyên gia y tế của bạn, tuy nhiên điều này có thể khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp và hoàn cảnh cá nhân. Cuối cùng, điều quan trọng bạn cần lưu ý rằng, người mang thai thuộc nhóm dân số đặc biệt, cần được giám sát, theo dõi sát sao khi huấn luyện và phải được hướng dẫn từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe bao gồm cả bác sĩ, huấn luyện viên và chuyên gia dinh dưỡng.

Rhabdomyolysis: Tập tạ quá nhiều có thể "đi bán muối" ? Cách phòng tránh

Rhabdomyolysis: Tập tạ quá nhiều có thể "đi bán muối" ? Cách phòng tránh

Rhabdomyolysis, tạm dịch: Tiêu cơ vân, thường gọi tắt là Rhabdo chỉ tình trạng khiến cơ của bạn bị phá vỡ, có thể dẫn đến chết cơ. Khi điều này xảy ra, các thành phần của sợi cơ như CPK/CK (Creatine Kinase), urate, myoglobin, kali... sẽ xâm nhập vào hệ thống tuần hoàn của bạn làm tăng nồng độ trong máu của chúng. Điều này có thể gây tổn thương cho các cơ quan nội tạng như tim, gan, thận. Rhabdo đến từ sự phá vỡ cơ xương do chấn thương cơ trực tiếp hoặc gián tiếp. Nếu không được điều trị ngay có thể dẫn đến tổn thương thận. Có thể bạn chưa biết, hàng năm tại Mỹ có tới 25,000 ca Rhabdo được báo cáo y tế ghi nhận ( Link ). Một số dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của tiêu cơ vân là yếu cơ, cứng cơ, đau cơ và thay đổi màu nước tiểu sang sẫm màu, màu trà. Các triệu chứng khác bao gồm sưng cơ, lượng nước tiểu thấp, mệt mỏi, có vết bầm tím, đi tiểu không thường xuyên, một cơn sốt, một cảm giác khó chịu, hoặc cảm thấy không khỏe, buồn nôn và nôn mửa khi tập, lú lẫn hay quên và cả kích động. Các triệu chứng của Rhabdo có thể từ nhẹ đến nặng. Các triệu chứng thường phát triển từ một đến ba ngày sau khi bị chấn thương cơ. Một điều cần lưu ý rằng, với một số người thậm chí họ có thể không nhận thấy đau nhức cơ nhưng vẫn bị Rhabdo ( Link ). Rhabdomyolysis là một điều kiện có thể gây tử vong. Nó có thể gây tổn thương thận cấp tính do tăng kali máu nghiêm trọng, tổn thương thận cấp tính (AKI) và sốc giảm thể tích. Tỷ lệ tử vong do suy thận cấp từ rhabdo ở bệnh nhân chấn thương có thể lên tới 20%. Khi nhập viện trong tình trạng cấp cứu, tỷ lệ tử vong là 22% nếu không có tổn thương thận cấp tính và 59% nếu suy thận xảy ra. Nếu không được điều trị kịp thời, người bị rhabdo sẽ phải thay thế thận ( Link ). Rhabdo cũng có thể gây ra rối loạn nhịp tim ở mức nguy hiểm (arrhythmia). Nếu không được điều trị trong một thời gian dài, Rhabdo có thể dẫn đến bất thường về điện giải, hạ albumin máu, tăng axit uric máu, hội chứng khoang ( compartment syndrome ), AKI và suy thận, đông máu nội mạch lan tỏa (DIC, một biến chứng muộn) ( Link ). Nguyên nhân của Rhabdo Nguyên nhân của Tiêu cơ vân bao gồm tập thể dục cường độ cao, mất nước nghiêm trọng và quá nóng, dùng thuốc. Các nguyên nhân khác bao gồm chấn thương do va đập chẳng hạn như do tai nạn ô tô, ngã hoặc sập tòa nhà, chèn ép cơ do bất động kéo dài sau khi bị gãy xương hoặc ngã, chấn thương do điện giật, sét đánh hoặc bỏng cấp độ ba, nọc độc từ rắn hoặc côn trùng cắn. Các nguyên nhân không do chấn thương bao gồm sử dụng rượu hoặc các loại thuốc bất hợp pháp như heroin, cocaine hoặc amphetamine, căng cơ quá mức ở các vận động viên được đào tạo và không được đào tạo, dùng liều cao một số loại thuốc, say nắng, co giật, hiếu động thái quá ở bệnh nhân cai rượu, nhiễm toan ceton do tiểu đường , các bệnh về cơ (bệnh cơ) như thiếu men cơ bẩm sinh hoặc loạn dưỡng cơ Duchenne và nhiễm vi-rút như cúm, HIV hoặc vi-rút herpes simplex ( Link) . Các lựa chọn điều trị cho Tiêu cơ vân bao gồm xác định nguyên nhân và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp dựa trên tình trạng và mức độ nghiêm trọng. Chạy thận có thể được thực hiện nếu có tổn thương thận và suy thận. Liệu pháp tiêm tĩnh mạch với bicarbonate sẽ giúp loại bỏ myoglobin. Rhabdo khi tập luyện Tiêu cơ vân do tập thể dục, còn được gọi là tiêu cơ vân do gắng sức (Exertional Rhabdomyolysis), là tình trạng mô cơ bị phá vỡ quá mức và giải phóng các chất có hại vào máu. Nó có thể gây đau cơ, cứng khớp, sưng tấy, mệt mỏi, nhức đầu và nước tiểu sẫm màu. Nó cũng có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như suy thận, hội chứng khoang và rối loạn nhịp tim. Nó có thể xảy ra ở bất kỳ ai tập thể dục quá mạnh, lặp đi lặp lại hoặc quá lâu, đặc biệt là ở những người không được đào tạo, không phù hợp, thừa cân hoặc ốm yếu, hoặc trong môi trường nóng hoặc độ cao ( Link ). Rhabdo không chỉ xảy ra ở tập kháng lực mà còn có thể xảy ra ở cả các môn thể thao sức bền với nhiều độ tuổi khác nhau và kể cả ở phụ nữ ( Link ) ( Link ). Với tập tạ, Rhabdo có nhiều khả năng xảy ra ở những người thực hiện nhiều sets với mức tạ nặng hoặc liên tục đẩy các sets của họ tới mức thất bại hoàn toàn hoặc cả hai (Như với môn CrossFit - Link ). Cơ hội phát triển tiêu cơ vân tăng lên khi luyện tập nhiều nhóm cơ, ở nhiệt độ khắc nghiệt hoặc khi không được cung cấp đủ nước. Nguy cơ tăng gấp ba lần với một số loại thuốc, bao gồm statin hoặc thuốc chống loạn thần. Nâng vật nặng hơn với số lần lặp lại ít hơn, như trong một chương trình rèn luyện sức mạnh truyền thống, thường không dẫn đến rhabdo. Khi phát hiện dấu hiệu của Rhabdo, bạn cần ngừng tập ngay. Trong các trường hợp có biểu hiện nặng, bạn cần được chăm sóc và điều trị y tế nhanh chóng. Đồng thời sau khi đã được điều trị bạn cũng cần cẩn thận khi trở lại việc tập luyện. Thời gian phục hồi từ Rhabdo khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng và việc có bất kỳ biến chứng nào hay không. Nếu tình trạng này được nhận biết và điều trị sớm, hầu hết các biến chứng nghiêm trọng có thể tránh được và bạn có thể hồi phục hoàn toàn. Phục hồi từ Rhabdo do tập thể dục, nếu không có biến chứng lớn, có thể mất vài tuần đến vài tháng để bệnh nhân tập thể dục trở lại mà không tái phát các triệu chứng. Điều quan trọng là làm theo lời khuyên và khuyến nghị của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn để điều trị và phục hồi tốt nhất. Nghỉ ngơi giúp bạn cảm thấy tốt hơn trong quá trình điều trị và huấn luyện viên có thể khuyên bạn nên đợi vài tuần đến vài tháng trước khi tiếp tục các hoạt động tập thể dục trở lại. Các cách phòng tránh Rhabdo khi tập luyện Cách phòng tránh tốt nhất là tìm ra liều lượng tập luyện phù hợp với hồ sơ thể hất hiện tại của bạn. Xem lại các mức thất bại hay các nấc thang đo độ gắng sức như RPE để giúp bạn xác định đúng mục tiêu cho từng buổi tập, từng giai đoạn tập. Trong nhiều trường hợp cần xác định rõ mục tiêu có phù hợp hay không để tránh những ám ảnh về hình thể hay cái tôi quá cao. Một lưu ý là, bạn không nên nhầm lẫn Rhabdo với DOMS - đau nhức cơ khởi phát muộn. DOMS so với Rhabdo sẽ "nhẹ nhàng" hơn và thường xảy ra sau 24-72h sau tập chứ không có tiến triển tồi tệ thêm qua từng giờ ngay sau tập. Để ngăn ngừa Rhabdo khi tập thể dục và các hoạt động vận động nói chung, bạn có thể thực hiện các bước sau: Tăng dần cường độ và thời gian tập luyện theo thời gian để cơ thể bạn thích nghi với sự căng thẳng của việc tập luyện. Lắng nghe cơ thể của bạn và nghỉ giải lao hoặc ngừng tập thể dục nếu bạn bắt đầu cảm thấy không khỏe. Uống đủ nước trước, trong và sau khi tập thể dục. Điều này sẽ làm loãng nước tiểu của bạn và giúp thận của bạn loại bỏ bất kỳ myoglobin nào mà cơ bắp của bạn có thể đã giải phóng trong khi tập thể dục. Tránh uống rượu bia trước/trong khi tập luyện hay làm việc dưới trời nóng. Nghỉ giải lao ở một khu vực mát hơn để giúp ngăn chặn rhabdo. Xin lưu ý rằng công việc hoặc các hoạt động liên quan đến gắng sức và/hoặc tiếp xúc với nhiệt độ cao có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh rhabdo. Hãy cố gắng tránh những yếu tố rủi ro này nếu có thể. Tìm hiểu các dấu hiệu và triệu chứng của các bệnh liên quan đến nhiệt độ cao và thực hiện các bước để tránh bị quá nóng. Hãy nhận biết bất kỳ loại thuốc hoặc chất bổ sung nào bạn đang dùng có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tiêu cơ vân. Điều quan trọng là phải lắng nghe cơ thể của bạn và không cố gắng quá sức. Nếu bạn bắt đầu gặp bất kỳ triệu chứng rhabdo nào, hãy dừng hoạt động hiện tại của bạn ngay lập tức, hạ nhiệt, bắt đầu uống nước và đến nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để được kiểm tra rhabdo ( Link ).

Nghiện xem Porn có phải một bệnh ? Cách điều trị ?

Nghiện xem Porn có phải một bệnh ? Cách điều trị ?

(Click vào hình hoặc xem video tại đây ) Nghiện xem porn, xem phim khiêu dâm đề cập đến sự phụ thuộc về mặt cảm xúc vào nội dung khiêu dâm (pornography) gây trở ngại cho cuộc sống hàng ngày, các mối quan hệ và khả năng hoạt động. Một người có thể trở nên không hài lòng với đời sống tình dục của chính họ hoặc tham gia vào các hành vi nguy hiểm, chẳng hạn như xem phim khiêu dâm tại nơi làm việc, các hành vi "biến thái". Một số dấu hiệu cho thấy nội dung khiêu dâm có thể gây ra vấn đề bao gồm: đời sống tình dục của một người trở nên kém thỏa mãn hơn, nội dung khiêu dâm gây ra các vấn đề về mối quan hệ hoặc khiến một người cảm thấy ít hài lòng hơn với đối tác của họ, thậm chí có các hành vi lệch chuẩn. Tuy nhiên theo Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, nhiều chuyên gia không đồng ý với khái niệm "nghiện porn" ( Link ) mà cho rằng đây là hậu quả của một hoặc nhiều rối loạn tâm lý bị ảnh hưởng chồng chéo bởi nhiều vấn đề tâm sinh lý xã hội khác. Hiệp hội các nhà giáo dục, tư vấn và trị liệu về tình dục Hoa Kỳ (AASECT) gợi ý rằng không có đủ bằng chứng để hỗ trợ phân loại chứng nghiện khiêu dâm hoặc tình dục là một chứng rối loạn sức khỏe tâm thần. Thay vào đó, họ gợi ý rằng việc coi khiêu dâm là có vấn đề có liên quan đến quan điểm có hại về tình dục ( Link ). Các bằng chứng nghiên cứu cũng chỉ ra, rất có thể hành vi thúc đẩy đến việc bạn "xem porn đến mức như nghiện" mới là nguyên nhân chính của vấn đề ( Link ). Việc xem nhiều phim khiêu dâm không trở thành một chứng nghiện về mặt khái niệm bệnh tâm lý do hai lý do chính sau đây: Nó vốn không liên quan đến việc chấp nhận rủi ro để thực hiện hành vi, ở đây là xem porn Nó không liên quan đến sự dung nạp (tolerance), tức khi đã quen bạn sẽ cần một lượng lớn hơn để có được tác dụng tương tự hoặc hội chứng cai nghiện (withdrawal effect) với những phản ứng phụ bất lợi cho sức khỏe khi buộc phải dừng lại Việc khó hình thành khái niệm "nghiện porn" cũng đến từ việc nó thường đi cùng và có thể bị trùng lấp với các khái niệm như "nghiện thủ dâm" nhưng không được xác định rõ về liều lượng có hại. Việc thủ dâm trong nhiều ngữ cảnh được chứng minh có lợi cho sức khỏe, đặc biệt với nam giới và cũng rất khó xác minh nó là một bệnh. Thêm vào đó, rất khó có thể tìm ra một nhóm đối chứng đáng tin để làm nghiên cứu trong thời gian dài dẫn đến khái niệm này vẫn chưa được xác lập một cách chính quy về khoa học. Bạn "nghiện porn" dẫn đến việc bạn kém khỏe mạnh về mặt tâm lý hay do bạn kém khỏe mạnh về mặt tâm lý dẫn đến việc bạn "nghiện porn" ? Theo một nghiên cứu năm 2015 được công bố trên tạp chí Khoa học hành vi, điện não đồ (EEG) có thể phát hiện những thay đổi trong hoạt động của não (cụ thể là một sự kiện phản ứng được gọi là P300) khi xem phim khiêu dâm. Phản hồi có thể xảy ra trong vòng 300 mili giây sau khi xem nội dung khiêu dâm ( Link ). Và dù có tranh cãi về tính chính quy khoa học của khái niệm "nghiện porn", càng ngày càng có nhiều người gặp vấn đề vì chứng lạm dụng các nội dung khiêu dâm này ( Link ). Một nghiên cứu gần đây chỉ ra mối quan hệ đáng kể giữa sức khỏe tâm thần và việc sử dụng nội dung khiêu dâm, bao gồm các hành vi phản ánh chứng nghiện hành vi, làm nổi bật khả năng đóng góp của nội dung khiêu dâm trên internet đối với sức khỏe tâm thần tiêu cực ở một số sinh viên đại học ( Link ). Ở một góc nhìn khác, cũng như với ngành thực phẩm bổ sung , có thể nhiều quan điểm được biên tập bởi các chuyên gia vốn nhận tài trợ bởi ngành công nghiệp phim người lớn, một ngành công nghiệp với doanh thu hàng năm trị giá gần 100 tỷ USD. Một bài đánh giá có hệ thống năm 2019 đã cho thấy tình trạng này ngày càng phổ biến ( Link ) và ảnh hưởng đến nhiều nhóm đối tượng. Ngay cả các ngôi sao Hollywood hay người thành công như Kanye West, Terry Crew... ( xem video tại đây ) cũng thừa nhận về tình trạng này của mình. Các lập luận ủng hộ việc sử dụng phim khiêu dâm lành mạnh không làm giảm nhẹ đi tác hại nghiêm trọng mà chứng nghiện phim khiêu dâm có thể gây ra, cho cả người đối phó với chứng nghiện và những người xung quanh họ. Và vấn đề ảnh hưởng của chứng nghiện này đang dần biểu hiện rõ sự nghiêm trọng với thế hệ GenZ, thế hệ đầu tiên chúng ta có đầy đủ dữ liệu về mặt số lượng nhóm dân số cũng như thời gian phát triển các công cụ nghiên cứu. Các tác nhân phổ biến gây nghiện phim khiêu dâm bao gồm: Các tình trạng sức khỏe tâm thần cơ bản gây ra đau khổ tâm lý Các vấn đề về mối quan hệ dẫn đến không thỏa mãn tình dục Các chuẩn mực văn hóa không lành mạnh ảnh hưởng đến kỳ vọng và sở thích tình dục Chán nản, căng thẳng và mất tập trung cảm xúc thúc đẩy nhu cầu trốn thoát và niềm vui thỏa mãn nhanh chóng Sự tưởng tượng và sự tò mò thúc đẩy mong muốn có được những trải nghiệm tình dục mới lạ và có thể cả "dị dạng" Yếu tố sau cùng theo thời gian có thể tạo ra sự lệch lạc bao gồm những hành vi thiếu chuẩn mực trong đời sống. Như các trường hợp "sexting" không phù hợp, quấy rối rình mò, các hành vi tình dục biến thái đều có thể đến từ nguyên nhân này. Nếu bạn lo lắng về việc xem phim khiêu dâm của mình, có một số dấu hiệu cảnh báo cần xem xét. Bạn có thể nghiện phim khiêu dâm nếu: Bạn đắm chìm trong những suy nghĩ về phim khiêu dâm ngay cả khi bạn không tích cực xem nó. Bạn xem phim khiêu dâm trên điện thoại di động của mình tại nơi làm việc hoặc trong các tình huống xã hội mà bạn có thể bị nhìn thấy. Bạn cảm thấy xấu hổ, tội lỗi hoặc chán nản về việc xem phim khiêu dâm của mình. Bạn tiếp tục xem phim khiêu dâm bất chấp tác hại mà nó đã, đang gây ra hoặc có thể gây ra đối với các mối quan hệ, công việc hoặc cuộc sống gia đình của bạn. Bạn cảm thấy giảm sự hài lòng về tình dục với các đối tác khi không có nội dung khiêu dâm. Bạn ẩn nội dung khiêu dâm và việc xem phim khiêu dâm của mình với đối tác và các thành viên trong gia đình. Bạn khó chịu khi được yêu cầu cắt giảm hoặc ngừng xem phim khiêu dâm. Bạn mất thời gian khi xem phim khiêu dâm. Bạn đã cố gắng bỏ xem phim khiêu dâm nhưng không thành công. Cách điều trị Không có phương pháp điều trị cụ thể nào cho chứng nghiện phim ảnh khiêu dâm và một số bác sĩ cũng như chuyên gia tư vấn có thể không tin rằng đây là một tình trạng y tế thực sự. Việc điều trị có thể bao gồm liệu pháp tâm lý, chẳng hạn như liệu pháp hành vi nhận thức, để giúp một người hiểu và thay đổi hành vi của họ1. Tư vấn về mối quan hệ cũng có thể hữu ích để đối tác nói về giá trị của họ và vun đắp lòng tin sâu sắc hơn1. Trong một số trường hợp, thuốc có thể được kê đơn để giúp loại bỏ những suy nghĩ cưỡng chế hoặc ám ảnh, đặc biệt nếu chứng nghiện phim khiêu dâm xảy ra cùng với một chẩn đoán khác. Các chiến lược để quản lý mức tiêu thụ nội dung khiêu dâm có thể bao gồm xóa tất cả nội dung khiêu dâm khỏi thiết bị, thay thế thói quen bằng một thói quen khác và xác định các yếu tố kích hoạt để tránh trong tương lai ( Link ). Dưới đây là một số mẹo về cách ngừng nghiện phim khiêu dâm: Xóa tất cả nội dung khiêu dâm khỏi thiết bị của bạn và cân nhắc cài đặt khóa dành cho phụ huynh để khiến việc xem nội dung khiêu dâm trở nên khó khăn hơn. Thay thế thói quen khiêu dâm của bạn bằng một thói quen khác, chẳng hạn như tập thể dục hoặc thực hiện sở thích. Xác định các yếu tố kích hoạt bạn, chẳng hạn như sự cô đơn, buồn chán hoặc căng thẳng và cố gắng hết sức để tránh chúng trong tương lai. Dành nhiều thời gian hơn cho bạn bè và các thành viên trong gia đình. Các loại trị liệu dựa trên chánh niệm khác nhau có thể giúp bạn vượt qua cơn nghiện phim khiêu dâm, bao gồm Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) và Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT). Nghiện phim khiêu dâm cũng có thể được điều trị bằng phương pháp điều trị nội trú hành vi được cung cấp tại các cơ sở nội trú hoặc nội trú. Cũng do vấn đề này có sự chồng chéo của nhiều yếu tố và cả rào cản đạo đức nên các lời khuyên chung có thể không có tác dụng. Kể cả các biện pháp sử dụng TPBS, các loại thức ăn hay một số cách giúp tạm quên có thể gây ra phản ứng ngược tệ hại hơn khi người nghiện tiếp xúc trở lại với các nguy cơ gây nghiện. Trong những trường hợp cụ thể, các chuyên gia tâm lý, sức khỏe có kinh nghiệm có thể xem xét các tình trạng và mức độ cụ thể để đưa ra các phương án chính xác hơn. Điều quan trọng cần lưu ý là nghiện phim khiêu dâm không phải là một chẩn đoán y tế chính thức, nhưng có nhiều cách khác nhau khiến việc xem nội dung khiêu dâm có thể trở thành một vấn đề sức khỏe. Nếu bạn thấy rằng bạn không thể kiểm soát việc xem nội dung khiêu dâm của mình và hành vi này đang cản trở khả năng của bạn để có một cuộc sống trọn vẹn, bạn có thể muốn tìm kiếm sự trợ giúp từ các chuyên gia tâm lý, sức khỏe. Ngoài ra, việc bỏ qua việc tự bào chữa cho "cái tôi" để tìm hiểu về “nghiện” phim khiêu dâm, nguyên nhân và triệu chứng của nó có thể giúp bạn giải quyết và vượt qua nó.

Công nghệ Liposomal trong TPBS - Trò PR hay thực sự hữu ích ?

Công nghệ Liposomal trong TPBS - Trò PR hay thực sự hữu ích ?

Xem thêm: Supplementing Basics - Hướng dẫn coaching TPBS Liposomal Supplements là những loại TPBS sử dụng công nghệ liposome để cung cấp chất dinh dưỡng hoặc các hoạt chất khác. Bắt nguồn từ công nghệ liposome sử dụng cho các loại thuốc, TPBS sử dụng công nghệ liposome được quảng cáo nhiều như một xu hướng mới, tiên tiến trong việc sản xuất TPBS. Đại dịch Covid-19 đã góp phần làm bùng nổ những loại TPBS có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch hay hứa hẹn trị bệnh như Vitamin C, Glutathione, NAC (N-Acetyl Cysteine) Vitamin D... Trong đó nổi bật nhất là xu hướng sử dụng công nghệ Liposomes cho các loại TPBS kể trên kèm theo rất nhiều "mỹ từ marketing" đầy ma lực. Vậy thực hư về công nghệ nảy như thế nào ? Đây chỉ là "trò PR" thường thấy trong TPBS hay thực sự hữu ích ? Bài viết này sẽ đưa ra những thông tin để bổ sung cho các bạn quan tâm đến lĩnh vực dinh dưỡng hoặc TPBS dưới góc độ huấn luyện. Liposomes là gì ? Liposome được phát hiện ra năm 1965 bởi giáo sư A.D.Bangham thuộc ĐH Cambridge (Anh), thực chất là một phân nhóm của hạt phân tử nano bao gồm một đuôi kỵ nước và một đầu ưa nước cấu thành một màng phospholipid. Từ Liposomes được hình thành từ hai từ Hy Lạp: Lipo (chất béo) và soma (thân hình). Chúng rất giàu hàm lượng lipid với nhiều tiêu chí để phân loại, bao gồm đặc điểm cấu trúc, thông số cấu trúc và kích thước, phương pháp tổng hợp, điều chế và nạp thuốc ( Link ). Mô tả một cách đơn giản, công nghệ Liposome giúp tạo ra một màng phospholipid giúp bảo vệ dược chất/dinh dưỡng ở lõi vượt qua hàng rào tiêu hóa để đi đến vùng cần thiết. Do vậy Liposomes có thể được sử dụng làm phương tiện vận chuyển thuốc để đưa dược phẩm và chất dinh dưỡng đến vùng tế bào/mô cần thiết ( Link ). FDA Hoa Kỳ cung cấp một hướng dẫn và cấp phép chấp thuận một số loại thuốc sử dụng công nghệ này ( Link ). Nhưng cũng cần lưu ý rằng, FDA Hoa Kỳ không điều hành hay xác nhận các vấn đề về TPBS (Dietary Supplement) hay các chất dinh dưỡng ( Link ). Lợi ích của Liposomes là gì ? Liposome giúp bảo vệ các thành phần chất cần thiết không bị phá hủy bởi axit dạ dày hoặc được lọc bỏ bởi gan. Chúng làm tăng khả năng hấp thụ và sinh khả dụng của các hoạt chất. Chúng là tự nhiên và hữu cơ, vì liposome được tạo thành từ phospholipid, tương tự các tế bào mỡ tồn tại trong cơ thể con người ( Link ). Liposome có thể làm giảm độc tính, kiểm soát việc giải phóng thuốc theo thời gian và tăng khả dụng sinh học. Các chất ưa nước và ưa mỡ có thể được tích hợp vào liposome. Liposome có thể được sử dụng cho các ứng dụng khác nhau như thuốc, vắc-xin (cả loại mRNA/DNA), chế tạo các cảm biến sinh học, chẩn đoán và ứng dụng trong thực phẩm ( Link ). Các điểm bất lợi của Liposomes ? Thuốc liposome có thể có một số tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ của thuốc liposome có thể bao gồm thiếu máu nặng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, viêm miệng, rụng tóc, suy nhược, suy tủy xương, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu và chán ăn ( Link ). Các tác dụng phụ khác bao gồm hội chứng ban đỏ (một phản ứng đau ở da gây đỏ, sưng và bong tróc ở lòng bàn tay và lòng bàn chân), da/môi/móng tay nhợt nhạt/xám/xanh, nhầm lẫn, nhức đầu, choáng váng, nhịp tim nhanh hoặc mệt mỏi, uể oải ( Link ). Ngoài chi phí sản xuất cao, thuốc Liposomes cũng có nguy cơ rò rỉ và bị trộn lẫn giữa thuốc/phân tử với màng bọc, xảy ra các phản ứng oxy hóa và thủy phân của phospholipid, thời gian bán hủy ngắn, độ hòa tan thấp và ít ổn định hơn ( Link ). Liposome cũng có thể khó sản xuất và khử trùng trên quy mô lớn. Sau khi sử dụng, không thể loại bỏ liposome. Phản ứng dị ứng có thể xảy ra với các thành phần liposome. ( Link ) ( Link ). Điều quan trọng cần lưu ý là một số yếu tố có ảnh hưởng sâu rộng đến tỷ lệ phần trăm liposome được tạo ra trong quá trình sản xuất, cũng như khối lượng và chất lượng thực tế, cũng như tính ổn định lâu dài của bản thân các liposome. Công nghệ Liposomes trong supplement Giống như thuốc liposome, TPBS liposome được thiết kế để tăng khả năng hấp thụ và khả dụng sinh học của các thành phần hoạt tính. Trước khi công nghệ Liposomes tạo thành xu hướng như hiện tại, loại sản phẩm được quảng báo nhiều nhất với công nghệ này là các loại DHEA được sản xuất bởi Blackstone Lab. Cũng như thuốc, Liposomes giúp bảo vệ các thành phần chất dinh dưỡng không bị hư hại bởi axit dạ dày hoặc bị loại bỏ bởi gan. Chúng làm tăng khả năng hấp thụ và sinh khả dụng của các hoạt chất. Trong ngữ cảnh hỗ trợ điều trị bệnh, đưa chất dinh dưỡng cần thiết đến đúng nơi, công nghệ Liposomes cho thấy cho sự ưu việt ( Link ). Cách tốt nhất để biết liệu một chất bổ sung có được "phân phối" bằng công nghệ liposome hay không là kiểm tra nhãn hoặc bao bì của TPBS. Các loại TPBS liposome thường được dán nhãn ghi rõ thuật ngữ “liposomal” hoặc “liposome” hoặc có thể xuất hiện trong tên, bảng mô tả của sản phẩm. Bạn cũng có thể kiểm tra danh sách thành phần trong nhãn sản phẩm để biết sự hiện diện của phospholipid, được sử dụng để tạo thành liposome. Không có lo ngại về an toàn được biết đến liên quan đến TPBS liposome. Liposome đã được sử dụng để vận chuyển thuốc trong hơn hai thập kỷ và không có tác dụng tiêu cực nào từ chính liposome được báo cáo. Giống như tất cả các sản phẩm khác, TPBS liposomal có thể có một số tác dụng phụ nhẹ, có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn khi sử dụng liều cao hơn trong thời gian dài. Những tác dụng phụ này có thể bao gồm đau đầu, buồn ngủ, chán ăn, đồng tử giãn và tăng phản ứng với một số loại thuốc khác ( Link ). Điều quan trọng cần lưu ý là chất lượng của các chất bổ sung liposomal có thể khác nhau rất nhiều giữa các nhà sản xuất. Quan điểm của tác giả Tuy không có lo ngại về an toàn, TPBS liposome CÓ THỂ có một số nhược điểm cần lưu ý như sau: - Chúng thường đắt hơn tương đối so với các sản phẩm truyền thống do chi phí để sản xuất liposome. Và tuy có những nghiên cứu cho thấy Liposomes có thể tăng tính sinh khả dụng của Vitamin C ( Link ), không phải loại vitamin và khoáng chất nào, hoặc cách thức bổ sung dưỡng chất sử dụng công nghệ Liposomes cũng cho tác dụng tốt hơn về mặt hấp thụ, như nghiên cứu sau đây giữa sắt (iron) và magnesium chẳng hạn ( Link ). - Chất lượng của các chất bổ sung liposomal có thể khác nhau rất nhiều giữa các nhà sản xuất và rất khó xác định tính hiệu quả thực sự có tốt hơn thật hay không. Không có các nghiên cứu để so sánh giữa Liposomes và các loại hình sản xuất khác. Nói đơn giản, làm phức tạp thêm vấn đề xác minh chất lượng của sản phẩm. Về lý thuyết, màng liposomes hoàn toàn có thể bị hư hại gây ảnh hưởng đến chất ở bên trong nhất là vấn đề oxy hóa vì liposomes vốn là chất béo. - Ở những người khỏe mạnh, việc thêm vào công nghệ Liposome có thể không giúp các chất hoạt động tốt hơn. Như với creatine, một chất sẽ hoạt động tốt hơn với nhiều nước, việc sử dụng liposomes có thể giúp creatine vượt qua hàng rào tiêu hóa nhưng có thể ảnh hưởng đến khả năng này vì bản thân màng liposomes kém "hòa tan" hơn bản thân creatine. Việc phủ màng liposomes cũng có thể làm ảnh hưởng đến dược động học của một số nhóm chất vitamin, khoáng chất ( Link ). Tất nhiên bản thân công nghệ Liposome trong TPBS không giống như tai tiếng của Blackstone Lab ( Link ), nhưng tác dụng thực sự của các loại TPBS quảng bá sử dụng công nghệ Liposomes là điều đáng để bạn quan tâm, cân nhắc trong từng nghĩ cảnh sử dụng.

Aspartame trong Coca Zero gây ung thư ?

Aspartame trong Coca Zero gây ung thư ?

Aspartame là chất làm ngọt nhân tạo được sử dụng trong hơn 6.000 sản phẩm, bao gồm Diet Coke và Diet Pepsi, Kool Aid, Crystal Light, Tango và các loại đồ uống có đường nhân tạo khác; sản phẩm Jell-O không đường; Trident, Dentyne và hầu hết các nhãn hiệu kẹo cao su không đường khác; kẹo cứng không đường; gia vị ngọt ít hoặc không đường như sốt cà chua và nước xốt; thuốc và vitamin cho trẻ em. Nó cũng được bán trên thị trường với tên NutraSweet, Equal, Sugar Twin và AminoSweet. Việc sử dụng aspartame, hoặc bất kỳ chất làm ngọt nhân tạo nào, để giảm cân là một chủ đề được tranh luận sôi nổi. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi những người ăn kiêng sử dụng chất làm ngọt nhân tạo để cắt giảm lượng calo, họ có thể giảm cân thành công. Tuy nhiên, có các đánh giá cho thấy bằng chứng liên kết aspartame với tăng cân, tăng cảm giác ngon miệng và các bệnh liên quan đến béo phì ( Link ) ( Link ) kể cả ở trẻ em vị thành viên, thiếu niên ( Link ) ( Link ) ( Link ). Một phân tích tổng hợp năm 2017 về nghiên cứu về chất làm ngọt nhân tạo, được công bố trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Canada, không tìm thấy bằng chứng rõ ràng về lợi ích giảm cân của chất làm ngọt nhân tạo trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên và báo cáo rằng các nghiên cứu thuần tập liên kết chất làm ngọt nhân tạo với “sự gia tăng cân nặng và vòng eo và tỷ lệ mắc bệnh béo phì, tăng huyết áp, hội chứng chuyển hóa, tiểu đường loại 2 và các biến cố tim mạch cao hơn ( Link ). Người ta đã lo ngại rằng một số chất tạo ngọt nhân tạo có thể làm tăng béo phì, có khả năng ảnh hưởng gián tiếp đến nguy cơ ung thư, mặc dù các kết quả nghiên cứu còn chưa thống nhất ( Link ). Ví dụ, trong một nghiên cứu RCT đối với người trưởng thành bị thừa cân hoặc béo phì, những người tham gia uống đồ uống có chứa sucrose hoặc saccharin có trọng lượng cơ thể tăng đáng kể so với những người uống đồ uống có chứa aspartame, rebA (stevia tinh khiết cao) hoặc sucralose ( Link ). Tuy nhiên, một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp với 17 nghiên cứu RCT ở người lớn cho thấy rằng việc thay thế đồ uống có đường bằng đồ uống đường nhân tạo calo thấp hoặc không chứa calo có liên quan đến những cải thiện nhỏ về trọng lượng cơ thể ( Link ). Vào tháng 5 năm 2023, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo mọi người không nên tiêu thụ chất làm ngọt nhân tạo để giảm cân, bao gồm cả aspartame. Khuyến nghị này dựa trên việc xem xét có hệ thống các bằng chứng khoa học mới nhất, cho thấy rằng việc tiêu thụ chất làm ngọt không đường có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân, cũng như tăng trọng lượng cơ thể ( Link ). Đặc biệt nhóm nghiên cứu đưa ra khuyến nghị về việc coi aspartame như một chất gây ung thư(carcinogen). Tuy nhiên, nhiều tổ thức về an toàn thực phẩm nói rằng bằng chứng không thuyết phục và hợp chất này vẫn có thể được tiêu thụ một cách an toàn. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng cho biết họ không đồng ý rằng aspartame nên được phân loại là chất có thể gây ung thư ( Link ). Một điều quan trọng cần lưu ý là không phải tất cả các nghiên cứu đều tìm thấy mối liên hệ giữa aspartame và các tác động tiêu cực đến sức khỏe. Vào năm 2012, một nghiên cứu trên 125.000 người đã tìm thấy mối liên hệ giữa aspartame và việc tăng nguy cơ ung thư hạch, bệnh bạch cầu và đa u tủy ở nam giới nhưng không phải ở nữ giới. Nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên hệ giữa nước ngọt có ga với đường ở nam giới. Do những tác động không nhất quán đối với nam giới và phụ nữ, các nhà nghiên cứu kết luận rằng các liên kết có thể được giải thích một cách tình cờ. Các tác giả của nghiên cứu này sau đó cũng thông cáo đính chính có sai lầm về dữ liệu dẫn tới không đủ sức mạnh bằng chứng ( Link ). Một trong những nghiên cứu lớn nhất về mối liên hệ có thể có giữa aspartame và ung thư đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ NCI. Họ đã xem xét 285.079 nam giới và 188.905 phụ nữ trong độ tuổi từ 50 đến 71 đã tham gia Nghiên cứu Sức khỏe và Chế độ ăn uống NIH-AARP. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng aspartame không liên quan đến sự phát triển của ung thư não, bệnh bạch cầu hoặc ung thư hạch ( Link ). Đánh giá có hệ thống về mối liên hệ giữa chất làm ngọt nhân tạo và bệnh ung thư ở người đã được tiến hành bằng cách sử dụng dữ liệu từ 599.741 người từ năm 2003 đến năm 2014. Người ta kết luận rằng dữ liệu không cung cấp bằng chứng thuyết phục về mối liên hệ giữa aspartame với bệnh ung thư ( Link ). Vấn đề lỗi nghiên cứu dịch tễ cũng được đề cập tới trong một đánh giá năm 2013 ( Link ). Fitness Base - Hệ thống kiến thức chuyên sâu về tập luyện, dinh dưỡng, nghỉ ngơi, lifestyle dành cho người chuyên nghiệp Aspartame có an toàn ? Dựa trên dữ liệu từ nghiên cứu, cho đến lúc này FDA Hoa Kỳ vẫn chứng nhận Aspartame và nhiều loại đường nhân tạo khác là an toàn để sử dụng trong thực phẩm cho người. Cũng cần lưu ý rằng nhiều tuyên bố về những mối nguy sức khỏe từ các chất làm ngọt nhân tạo liên quan đến hệ vi sinh vật đường ruột, hệ miễn dịch hay tình trạng kháng insulin thường không có bằng chứng nghiên cứu thuyết phục trên người. Vấn đề liều lượng dùng, tình trạng sức khỏe của người dùng, chế độ ăn uống, sinh hoạt kết hợp nhiều thứ khác dẫn tới khó khăn trong việc thực hành những nghiên cứu có tính xác tín. Một minh họa dễ hiểu rằng, hệ vi sinh vật đường ruột ở mỗi người là khác nhau và tại mỗi thời điểm cũng khác nhau và chúng ta mới chỉ có thể dự đoán khả năng cao nhất từ những biểu hiện sức khỏe chứ chưa thể xác lập một cơ chế rõ ràng. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được (ADI) đối với aspartame là 50 miligam trên mỗi kilôgam (mg/kg) trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) đã đặt mức ADI thấp hơn là 40 mg/kg mỗi ngày. Điều này có nghĩa là nếu một người nặng 68 kg, họ sẽ cần uống khoảng 19 lon soda hoặc tiêu thụ hơn 85 gói aspartame mỗi ngày để vượt mức ADI ( Link ). Những người ăn hay sử dụng các sản phẩm có chứa aspartame trung bình tiêu thụ khoảng 4,9 mg/kg mỗi ngày, ít hơn 10% so với ADI được FDA khuyến nghị. Còn trong thực tế, Aspartame thường được bán trên thị trường như một “sự thay thế lành mạnh” cho đường thông thường. Một số lợi ích thường được gắn với Aspartame bao gồm: - Kiểm soát cân nặng: Aspartame được coi là không có dinh dưỡng và hầu như không thêm calo vào chế độ ăn của bạn. Đây cũng là lí do với người thừa cân béo phì, việc chuyển sang sử dụng sản phẩm này để thay thế cho các sản phẩm có đường trong thời gian ngắn có thể tạo ra những lợi ích. - Tăng cường hương vị: Aspartame có hương vị sạch, giống như đường nên nó làm tăng thêm hương vị trái cây và cam quýt trong thực phẩm và đồ uống. Trong kẹo cao su, nó giúp giữ được vị ngọt lâu hơn đến 4 lần so với kẹo cao su có đường. - Giúp ngăn ngừa sâu răng: Theo Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ, chất làm ngọt có hàm lượng calo thấp như Aspartame không thúc đẩy axit gây sâu răng trong miệng của bạn có thể gây hại cho răng. - Hữu ích cho những người mắc bệnh tiểu đường: Aspartame cho phép những người mắc bệnh tiểu đường thỏa mãn cảm giác thèm đồ ngọt mà không làm tăng lượng đường trong máu. Những lợi ích này nên được hiểu rõ ngữ cảnh và bạn cần hạn chế quá tin vào sự khoa trương từ truyền thông để PR cho sản phẩm với quá nhiều tác dụng tích cực vượt hơn thực tế của nó. Tất nhiên, bạn cũng không cần phải dùng các loại nước ngọt chứa đường nhân tạo với bất kỳ lý do gì về sức khỏe cả. Nếu bạn đang tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho Aspartame, có một số tùy chọn có sẵn. Một số chất làm ngọt tự nhiên mà bạn có thể muốn thử bao gồm mật ong, xi-rô cây thích, mật hoa cây thùa, lá cỏ ngọt và mật mía. Những chất làm ngọt này có thể được sử dụng thay cho đường trong nhiều công thức nấu ăn và có thể thêm vị ngọt cho thực phẩm và đồ uống. Ngoài ra còn có các chất làm ngọt nhân tạo khác được FDA và các cơ quan quản lý khác cho phép sử dụng. Chúng bao gồm acesulfame kali (Sweet One, Sunett), advantame, neotame (Newtame), saccharin (Sweet'N Low), sucralose (Splenda), đường la hán quả, cam thảo và chiết xuất lá stevia tinh khiết (Truvia, PureVia). Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù những chất làm ngọt này có thể là một chất thay thế tốt cho aspartame đối với một số người, nhưng chúng có thể không phù hợp với tất cả mọi người. Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên gia chăm sóc sức khỏe trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi nào đối với chế độ ăn uống hoặc lối sống của mình. Chất làm ngọt nhân tạo trong thực phẩm Để xác định xem thực phẩm có chứa chất làm ngọt nhân tạo hay không, bạn có thể kiểm tra danh sách thành phần trên nhãn thực phẩm. Chất làm ngọt nhân tạo có thể được liệt kê dưới các tên khác nhau, chẳng hạn như acesulfame kali, aspartame, neotame, saccharin, sucralose, luo han guo (quả la hán) hoặc chiết xuất lá stevia tinh khiết. Bạn cũng có thể tìm mã phụ gia thực phẩm của Hệ thống Đánh số Quốc tế (INS), như với Aspartame/Neotame là 961, được sử dụng ở Hoa Kỳ ( Link ). Điều quan trọng cần lưu ý là một món ăn nhẹ được dán nhãn ít đường hoặc không đường có thể không phải là lựa chọn bổ dưỡng nhất. Thực phẩm nguyên chất, chẳng hạn như trái cây và rau quả, thường có sự kết hợp tốt nhất các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Nhưng chất tạo ngọt nhân tạo có thể giúp một số người thưởng thức vị ngọt mà không dư thừa calo. Và nếu được sử dụng ở mức độ vừa phải, chất làm ngọt nhân tạo có thể là một phần của chế độ ăn uống lành mạnh. Chung quy lại, sử dụng bất cứ loại thực phẩm "nhân tạo" nào nhiều quá mức cần thiết đều có thể gây ra các vấn đề. Nhiệm vụ cảnh báo của các đơn vị như WHO là cần thiết với một sản phẩm không được kiểm soát chặt chẽ nhưng lại được dùng rất phổ biến như Aspartame.

Ăn Thô - Raw Vegan Diet - Phá giải toàn tập

Ăn Thô - Raw Vegan Diet - Phá giải toàn tập

Tham gia Fitness Base để hiểu sâu hơn về tập luyện, huấn luyện dinh dưỡng, lifestyle ! Có rất nhiều trào lưu ăn uống nổi lên trong lịch sử của loài người. Từ cách thực hành dinh dưỡng chửa bệnh thời Hippocrates cho tới những chế độ ăn kiêng theo mốt để giảm cân hiện tại. Ăn Thô nổi lên như một trào lưu được quảng bá bởi nhiều nhân vật trên mạng xã hội và gây ra nhiều tranh cãi. Trước khi đi vào phân tích các vấn đề của Ăn Thô, tác giả phải nói rõ những điều sau: - Không có một chuyên gia dinh dưỡng nào khuyến nghị hay đề xuất việc Ăn Thô. Những chế độ ăn cực kỳ nghiêm ngặt sẽ dẫn tới nguy cơ sức khỏe nên cần phải được theo dõi, hướng dẫn. - Không có một bác sĩ nào được phép trực tiếp đề xuất hay khuyến nghị mọi người Ăn Thô. Việc này có thể gây hại cho bản thân vị bác sĩ đó vì trái nguyên tắc nghề nghiệp. - Các cuốn sách tác giả về dinh dưỡng, được biên tập chỉ mang tính chất "sách tham khảo" và có giá trị rất thấp về cấp độ bằng chứng trong khoa học. Các nội dung mang tính chất ý kiến cá nhân (expert opinion), bài báo/báo cáo được biên tập (editorial) không có giá trị ứng dụng thực hành. Robert Young, tác giả của chế độ ăn kiềm hóa Alkaline Diet, pH Miracle (Phép màu pH) hướng dẫn việc dùng các thức ăn kiềm hóa để trị ung thư đã bị kết án và phải bồi thường rất nhiều tiền do những thông tin tuyên bố "ngụy khoa học" mang tính chất cá nhân sai lầm này. Một nghiên cứu sâu năm 2020 với 100 cuốn sách về dinh dưỡng bán chạy nhất cho thấy những bất cập và mâu thuẫn trong kiến thức và các lời khuyên dinh dưỡng được đưa ra. Có thể hiểu đơn giản, cuốn sách này khuyên bạn ăn như thế này thì cuốn sách kia sẽ nói ngược lại. Trong số đó phần lớn là chủ đề giảm cân và một số trường hợp còn hứa hẹn trị bệnh ung thư, chữa lành. Một số liệu đáng thú vị là chỉ có 3 tác giả là chuyên gia dinh dưỡng, số còn lại là bác sĩ, người viết blog và cả diễn viên. Nghiên cứu này làm sáng tỏ phạm vi thông tin phi lý đang được phổ biến ra công chúng và nhấn mạnh sự cần thiết của những nỗ lực trong tương lai để cải thiện việc phổ biến các lời khuyên dinh dưỡng hợp lý. ( Link ) Đáng buồn là trong thời đại ngập tràn thông tin mạng xã hội ngày nay, những tuyên bố về sức khỏe có sức ảnh hưởng lớn đến nhận thức và lựa chọn của người tiêu dùng nên thường bị lợi dụng ( Link ). Đặc biệt với một đất nước vẫn phổ biến việc tự chữa bệnh (40% - 70%) và chưa có nhận thức đúng đắn về sức khỏe cũng như các chuyên môn khác nhau trong ngành chăm sóc sức khỏe như Việt Nam ( Link ) ( Link ). Một lần nữa tác giả phải khẳng định lại, bác sĩ không được đào tạo về huấn luyện dinh dưỡng, kể cả với chức danh "bác sĩ dinh dưỡng" được cố tình chưng ra nhằm gây hiểu lầm tại Việt Nam ( Link ). Vấn đề đầu tiên của "Ăn thô" nằm ở chuyện định nghĩa về nó không nhất quán và thường được chính các "tín đồ" hiểu lầm vô ý hoặc cố tình với ăn chay (vegetarian) và ăn thuần chay (vegan). Tùy vào cấp độ nghiêm ngặt của chế độ ăn, những hạn chế của chế độ ăn đó càng bộc lộ nhiều hơn. Một người ăn chay thông thường sẽ không khó khăn bằng một người ăn thuần chay không chấp nhận bất cứ sản phẩm nào có nguồn gốc động vật, kể cả dầu cá Omega-3 hay protein từ trứng gà công nghiệp. Xét về độ "cực đoan" Ăn thô chắc chắn bị giới hạn còn hơn cả "Vegan". Ở đây tác giả sẽ dùng từ Ăn thô và Ăn thuần chay thô thay thế lẫn nhau nhưng cùng một ý nghĩa cho Raw Vegan Diet hoặc Raw Veganism. Có những định nghĩa như sau về Ăn Thô: 1. Một chế độ ăn kiêng dựa trên việc tiêu thụ hoàn toàn thực phẩm thực vật mà không cần nấu trước. 2. Một chế độ ăn kiêng dựa trên việc tiêu thụ thực phẩm tươi, khử nước ở nhiệt độ thấp (dưới 49 độ C), các sản phẩm hun khói lạnh hoặc thực phẩm thực vật lên men. 3. Chế độ ăn thuần chay thô bao gồm các loại thực phẩm được chế biến mà không cần đun nóng, và công thức của chúng không bao gồm các sản phẩm động vật, sữa hoặc trứng. 4. Một chế độ ăn kiêng loại bỏ tất cả thực phẩm và sản phẩm có nguồn gốc động vật, hoặc thực phẩm được nấu ở nhiệt độ nhiệt độ trên 48°C (118°F), cũng như, bất kỳ thực phẩm nào bị thay đổi so với điều kiện tự nhiên, và/hoặc chế biến. Trong thực tế, Ăn Thô thuần chay dường như lại đối lập với một kiểu Ăn Thô khác, Ăn Thô Carnivore, sử dụng toàn thịt động vật sống ( Link ). Tất nhiên, con người chúng ta, trước khi phát hiện ra ngọn lửa khoảng 200,000 năm trước, chính là ăn sống tất cả thức ăn từ thịt động vật đến các loại thực vật hái lượm được. Còn trong đời sống bình thường, số người hay ăn hải sản sống và cả thịt sống trong các bữa tiệc nhiều hơn mức các bạn tưởng tượng ( Link ). Ngoài ra, Minot và Murphy đã giành giải Nobel Y học và Sinh lý học năm 1934 sau khi sử dụng liệu pháp "Ăn Gan Tươi" của họ để điều trị bệnh thiếu máu ác tính. Bây giờ chúng ta biết rằng thành phần dinh dưỡng giúp điều trị này có thể thực hiện được là vitamin B12, chất này dễ bị phá hủy trong quá trình nấu nướng. Tất nhiên B12 còn có nhiều trong các loại thịt động vật khác nên bạn không cần phải quá lo lắng về việc mình sẽ phải ăn gan sống. Có những tuyên bố phổ biến sau về lợi ích của Ăn Thô*: *Ở đây chỉ nói tới những tuyên bố có tính khoa học, không đề cập tới những tuyên bố mang tính chất cảm nhận tâm linh như mở con mắt thứ ba hay các tác dụng tinh thần không thể kiểm chứng của các "tín đồ cuồng ăn thô". 1. Cải thiện tiêu hóa: Người ta cho rằng chế độ ăn thô có thể cải thiện tiêu hóa do hàm lượng chất xơ cao. Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2014 cho thấy chế độ ăn thuần chay thô có thể dẫn đến các vấn đề về đường tiêu hóa như chướng bụng, đầy hơi và tiêu chảy do ăn nhiều trái cây và rau sống. Tổng hợp lại một đánh giá có hệ thống năm 2023 với 12 nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa Raw Vegan Diet và hệ sinh vật đường ruột chưa rõ ràng ( Link ). Ăn thô cũng gia tăng nguy cơ nhiễm độc từ thực phẩm. 2. Giảm cân: Người ta cho rằng chế độ ăn thuần chay thô có thể dẫn đến giảm cân. Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2015 cho thấy chế độ ăn thô không giúp giảm cân nhiều hơn đáng kể so với chế độ ăn thông thường. Một khảo sát khác giữa nhiều người ăn thô cho thấy khả năng "sụt cân" cao đi kèm với tình trạng thiếu cân, mất kinh nguyệt. Điều này dẫn tới kết luận Ăn thô không nên được đề xuất trong thời gian dài( Link ). Tất nhiên thường có sự nhầm lẫn "cố tình" giữa Ăn chay và Ăn Thô khi những người ăn thô tìm cách bảo vệ cho lối ăn uống này và lợi ích về giảm cân. Ăn chay, ở đây là ăn chay Vegetarian nói chung, không phải ăn thuần chay (Vegan) rất nghiêm ngặt cho thấy sự hữu ích trong việc kiểm soát cân nặng ( Link ) chứ không phải trong việc giảm cân. 3. Cải thiện làn da: Người ta cho rằng chế độ ăn thuần chay thô có thể cải thiện sức khỏe của da. Và thực tế một bài đánh giá tường thuật năm 2022 cho thấy kết quả tốt dành cho các thực phẩm có nguồn gốc thực vật như rau xanh và trái cây. Tuy nhiên bài đánh giá này không đề cập đến chế độ ăn, chỉ đề cập đến thức ăn. Và việc ăn rau xanh, trái cây trong chế độ ăn thông thường đều mang lại lợi ích kể trên mà không đi kèm nguy cơ thiếu hụt dinh dưỡng. ( Link ) 4. Giảm viêm: Người ta cho rằng chế độ ăn thuần chay thô có thể làm giảm viêm nhiễm trong cơ thể. Một bài đánh giá năm 2020 cho thấy chế độ ăn thuần chay thô không làm giảm đáng kể các dấu hiệu viêm nhiễm so với chế độ ăn thông thường. ( Link ) 5. Cải thiện sức khỏe xương: Nhiều người tuyên bố rằng Raw Vegan Diet sẽ giúp xương chắc khỏe. Nhưng các nghiên cứu lại cho thấy những người ăn thô lâu dài có lượng xương thấp đi ( Link ) ( Link ). Một số rủi ro tiềm ẩn của chế độ ăn thuần chay thô bao gồm thiếu hụt chất dinh dưỡng và bệnh tật do thực phẩm. Nấu ăn thực sự có thể giải phóng các chất dinh dưỡng mà thực phẩm sống không có được. Tuân thủ nghiêm ngặt chế độ Ăn Thô có thể gây ra sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng có thể đoán trước được bao gồm vitamin B12, D, Niacin, sắt, iốt, kẽm, protein chất lượng cao, omega-3 và canxi. Chế độ Ăn Thô nghiêm ngặt kéo dài làm tăng nguy cơ gãy xương, thiểu cơ, thiếu máu và trầm cảm. Thực phẩm sống, kể cả có nguồn gốc thực vật cũng có nhiều khả năng bị nhiễm vi khuẩn có hại và các mầm bệnh khác có thể gây ngộ độc thực phẩm. Cần phải nói rõ thêm, không có bữa ăn nào miễn phí trong sinh lý học, những lợi ích luôn đi kèm với nguy cơ, dù nhỏ. Và việc bị lầm lẫn về nguyên nhân chính mang lại lợi ích hay hiệu ứng giả dược rất phổ biến trong ngành dinh dưỡng. Một người vốn ăn uống không tốt, gặp vấn đề sức khỏe rồi sau đó đạt được lợi ích từ việc chuyển sang một chế độ ăn nào đó, có thể nguyên nhân đến từ việc ngừng ăn những thức ăn không tốt trước kia hơn là từ chế độ ăn mới. Ví dụ nhiều người tuyên bố trước kia tôi cũng ăn tập lành mạnh nhưng toàn bệnh rồi Ăn thô được lợi ích sức khỏe nhưng khi nhìn lại chế độ ăn tập trước kia của họ, rất không lành mạnh và nhiều sai lầm do chỉ tự ý làm theo Google, YT và nghĩ rằng khỏe mạnh. Hay giống như việc bị nổi mụn do dùng whey, sữa tươi, ăn nhiều loại thịt chất lượng không tốt và khi ngừng việc đó, thì dù bạn có ăn thô hay không, bạn vẫn sẽ cải thiện được tình trạng. Tất nhiên đây là ví dụ, còn tình trạng thực tế có thể phức tạp hơn. Và tác giả có thể cam đoan, việc ăn uống điều độ đủ chất đúng cách sẽ mang lại nhiều giá trị tốt hơn ở bất cứ khía cạnh sức khỏe nào mà bạn nghĩ rằng Ăn Thô có thể mang lại. Cũng phải khẳng định lại rằng, kể cả với người tập thể hình thông thường, chế độ ăn điều độ cũng không phải ăn nhiều thịt như nhiều bạn nghĩ. Các khóa thay đổi hình thể, tăng cơ bắp như Pump Hero, Jacked Up của tác giả vẫn giành cho người ăn chay và ăn ít thịt động vật thông thường. Hay như việc chỉ nhìn vào giá trị giảm "cholesterol xấu" LDL, bạn có thể quên mất nguy cơ tăng bệnh tim mạch khác trong chế độ ăn này ( Link ). Chưa nói tới việc khái niệm "Cholesterol xấu" vốn được hiểu sai vì nó cần thiết, giống như việc hút thuốc lá dù giảm stress hay dễ tỉnh táo hơn nhưng vẫn rất có hại, không thể nhìn vào một lợi ích nhỏ được tuyên bố ra để rồi bỏ quên bức tranh tổng thể lớn hơn của sức khỏe chúng ta. Thêm vào đó, có lợi cho người này cũng chưa chắc có lợi cho người kia. Như việc Ăn thô có thể giúp những người già có thêm được các chất chống oxy hóa, giảm áp lực lên hệ thống tiêu hóa suy yếu so với chế độ ăn thịt. Nhưng Ăn Thô cũng giảm tế bào bạch cầu, CRP (C-reactive protein), nhưng yếu tố phản ứng với tình trạng viêm quan trọng trong hệ miễn dịch có thể không tốt với nhiều tệp đối tượng khác ( Link ). Phần tiếp theo sẽ đề cập rõ hơn những lợi điểm và nguy cơ của Ăn Thô theo góc nhìn của huấn luyện dinh dưỡng chuyên nghiệp. Những lợi điểm: - Chế độ ăn thuần chay thô thường có nhiều chất xơ, vitamin và khoáng chất, có thể tăng cường sức khỏe tổng thể và giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính. Đặc biệt với những người vốn có lối sống và ăn uống không khỏe mạnh hay gặp các tình trạng "bệnh lý" do lối sống và ăn uống không lành mạnh, nhiều áp lực, căng thẳng oxy hóa cao, việc chuyển sang Ăn thô thời gian đầu có thể cho thấy có tác dụng cải thiện rõ rệt. (Link) - Chế độ ăn thuần chay thô có thể có lợi cho những người mắc một số tình trạng sức khỏe, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, huyết áp cao và bệnh tim. Hãy lưu ý từ "CÓ THỂ" và ở đây đưa ra giả định nói chung còn thực tế những tình trạng bệnh lý như tiểu đường, huyết áp cao và bệnh tim rất phức tạp và khác nhau ở mỗi người. Có những người "do may mắn" có thể cải thiện, có những người sẽ có hệ quả ngược. Ví dụ một người bị "bệnh lý" dẫn tới tình trạng sức khỏe yếu, thân thể đang suy kiệt thì việc áp dụng chế độ ăn thiếu chất có thể gây ra hệ quả xấu hơn việc được lợi ích. - Chế độ ăn thuần chay thô có thể hỗ trợ giảm cân, mặc dù cần nhiều nghiên cứu hơn để xác nhận điều này. Lý do ở đây là giảm cân khỏe mạnh khác "sụt cân" vì thiếu chất đi kèm nhiều nguy cơ, sẽ trình bày phía sau. Cũng cần phải nói thêm, để giảm cân, có rất nhiều cách thức ăn khỏe mạnh, đủ chất và dễ theo hơn Ăn Thô. Và trong giảm cân, chắc chắn, yếu tố dễ dàng theo độ một chế độ đủ chất luôn tốt nhất. ( Link ). Những điểm chưa tốt: - Chế độ ăn thuần chay thô có thể khó tuân theo và có thể cần nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị bữa ăn. - Chế độ ăn thuần chay thô có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh do nhiễm khuẩn vì tiêu thụ thực phẩm sống và chưa nấu chín. - Chế độ ăn thuần chay thô có thể gây cô lập về mặt xã hội và có thể gây khó khăn cho việc đi ăn ngoài hoặc tham gia các cuộc tụ họp xã hội. Trái cây và rau quả từ các trang trại truyền thống được phun nhiều lần với hàm lượng hóa chất cao mà chúng có thể được loại bỏ ít nhất một phần trong quá trình nấu ( Link ). Tại Việt Nam, số lượng thuốc bảo vệ thực vật nhập hàng năm được công bố năm 2020 là 100,000 tấn. Trong đó 20% là chất bảo quản, số còn lại là thuốc trừ sâu, thuốc phun ra đồng ruộng. ( Link ). Một vấn đề nữa, chúng ta chưa có cơ chế kiểm soát an toàn thực phẩm cho cây trồng, rau củ bán ra các chợ đầu mối hay các khu vực tự kinh doanh. Và chắc chắn con số thuốc nói chung sẽ không chỉ rõ được số lượng các chất có hại cho sức khỏe dù các cơ quan chức năng vẫn phải liên tục thanh tra và loại bỏ ( Link ). Ở Mỹ và các nước khác, con số này còn lớn hơn ( Link ) như với TQ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gấp 6 lần Việt Nam. Điều này dẫn đến nguy cơ từ các loại trái cây, rau củ nhập từ nước ngoài vì khó kiểm soát hơn. Luật pháp nước sở tại cũng chỉ bảo vệ cho người dân nước họ. Những nguy cơ: - Thiếu hụt dinh dưỡng: Do không được nấu chín và bị giới hạn trong rau củ quả, chế độ Ăn Thô không cung cấp đủ một số chất dinh dưỡng như protein, vitamin B12, sắt, canxi, selen, kẽm, hai axit béo omega-3 (EPA và DHA) và vitamin D, có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nếu không được giải quyết đúng cách ( Link ) ( Link ). Các "tín đồ cuồng ăn thô" thường lấy lí do tìm cách bổ sung cho từng chất như thiếu Vitamin D thì tắm nắng 1-2h mỗi ngày hay thiếu sắt do khó hấp thụ thì ăn thêm trái cây chứa Vitamin C cho dễ hấp thụ hơn....Nhưng trong dinh dưỡng, việc can thiệp vào cơ chế để tăng tính hấp thụ của chất này dẫn đến những hậu quả thiếu hụt của chất kia hoặc thừa chất và kèm theo các nguy cơ khác. Như ví dụ trên, ăn trái cây nhiều vitamin C về lý thuyết có thể giúp tăng tính hấp thụ chất sắt từ thực vật hơn, nhưng tăng tới mức nào, cần tới bao nhiêu trái cây, loại trái cây nào...sẽ đẻ ra cả đống phức tạp. Chưa kể trái cây nhiều Vitamin C thường có tính axit mạnh, có thể đi ngược với lý thuyết "kiềm hóa ngăn bệnh" và gây ra các vấn đề về tiêu hóa, dễ bị tiêu chảy dẫn tới mất đi nhiều nước và chất dinh dưỡng hơn chẳng hạn. Hầu hết các loại đậu đều chứa axit phytic, có thể ngăn chặn sự hấp thụ của cơ thể đối với một số khoáng chất thiết yếu. Cà chua khi ăn sống có thể ngon nhưng bạn sẽ không có được bao nhiêu giá trị về dinh dưỡng vì cơ thể không thể hấp thụ được. - Sụt cân nhanh chóng có thể có tác động tiêu cực đối với những người rất năng động, những người sẽ cần phải nỗ lực rất nhiều để thu được lượng calo cần thiết [32]. Ngoài ra, việc sụt cân nhanh chóng còn kéo theo ảnh hưởng đến hệ trao đổi chất, mất lượng cơ bắp và có những nghiên cứu đã báo cáo việc giảm khối lượng xương ( Link ) ( Link ) ( Link ). Hãy nhớ rằng, cân nặng chỉ là 1 số đo chung chứ không đại diện cho việc khỏe mạnh hay không khỏe mạnh. Chế độ ăn thuần chay thô rất dễ gây thiếu hụt protein dẫn đến hàng loạt vấn đề về sức khỏe. Các tín đồ Ăn thô có thể tranh cãi, thực vật cũng có protein hoặc ăn nhiều hơn là đủ nhưng protein trong thực vật , trừ đậu nành, không hoàn chỉnh. Và còn cần kể tới vấn đề hấp thụ. Protein trong thực vật đi kèm với các nhóm chất xơ, tinh bột kháng, phản dinh dưỡng...dẫn đến khó hấp thụ hơn. Kể cả đậu nành cũng cần được nấu chín cơ thể chúng ta mới có thể hấp thụ được tốt hơn. - Một nghiên cứu năm 2005 ( Link ) cho thấy rằng mặc dù chế độ ăn thực phẩm thô trong thời gian dài có thể làm giảm cholesterol và chất béo trung tính tổng thể, nhưng nó cũng có thể làm giảm mức lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) hoặc cholesterol “tốt” và tăng mức homocysteine (tHcy) vì thiếu vitamin B-12. Nồng độ tHcy cao, tỷ lệ LDL:HDL thấp, thiếu Vitamin B12 làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề về tim mạch và đột quỵ ( Link ). Việc nấu chín có tác dụng tích cực với các loại rau để mang lại giá trị dinh dưỡng tốt hơn ( Link ). - Ngộ độc thực phẩm. Thực phẩm thực vật đi kèm với nhiều chất phản dinh dưỡng (anti-nutrient) ngăn cản việc hấp thụ các chất dinh dưỡng khác. Ngoài ra chúng còn đi kèm với nhiều độc tố có thể gây hại cho sức khỏe. Trường hợp Liam Hemsworth phải từ bỏ Ăn thuần chay do Oxalates có nhiều trong các loại rau xanh có thể gây tích tụ thành sỏi thận nếu không được chế biến đúng cách hay nấu chín. Thực vật bị nhiễm vi sinh vật (các loại nấm mốc thuộc Penicillium, Phytophthora, Alte rnaria, Botrytis, Aspergillus và /hoặc các loài vi khuẩn từ Pseudomonas, Erwinia, Bacillus và Clostridium) có thể gây bệnh, ngoại trừ Bacillus và Clostridium có thể bị tiêu diệt khi được đun nóng ( Link ). Việc nấu chín giúp loại bỏ rất nhiều yếu tố độc hại và cả các chất kháng dinh dưỡng có trong thức ăn. ( Link ) Các loại hạt đã nảy mầm, chẳng hạn như mầm cỏ linh lăng và giá đỗ, có thể chứa vi khuẩn Salmonella, E. coli hoặc Listeria và gây ngộ độc thực phẩm. Các loại đậu bắt buộc phải được nấu chín vì nguy cơ ngộ độc rất cao. - Mất kinh ở phụ nữ, đặc biệt là người cao tuổi, những người thực hành chế độ ăn thuần chay thô ( Link ),( Link ) . Việc này về lý thuyết có thể giảm khả năng sinh sản do rối loạn chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Lượng protein không đủ có thể quyết định việc giảm nồng độ trong huyết tương của các axit amin thiết yếu khác nhau, chán ăn và kích thích tố chuyển hóa, giảm năng lượng, khả năng tiêu hóa và giảm khối lượng cơ nạc ( Link ) ( Link ). Thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ gãy xương và loãng xương [ Link ] ( Link ). Đừng quên rằng chúng ta có rất ít nắng vào mùa đông dài và hãy uống TPBS khi cần thiết. Với nam giới khỏe mạnh, việc thiếu hụt LDL, các loại chất béo, kẽm và Vitamin D có thể ảnh hưởng tới việc sản xuất các hormone sinh dục bao gồm Testosterone, dẫn đến giảm khả năng sản xuất tinh trùng khỏe mạnh. Tất nhiên có nghiên cứu sơ bộ cho thấy với những người vốn do lối sống kém khỏe mạnh và áp lực dẫn tới giảm sút sinh dục, việc chuyển sang ăn chay một thời gian có thể mang lại lợi ích tốt ngược lại ( Link ). Cần phải nói rõ Ăn Chay không phải Ăn Thô. - Các vấn đề về chán ăn, sức khỏe tâm thần hay ám ảnh ăn uống như đã đề cập trong video ở phần đầu bài blog này và đã chia sẻ ở một bài blog khác trên kênh. Xem thêm tại đây và tại đây . Với trường hợp phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai, Ăn Thô là tối kỵ. Với thời gian nuôi con, cho con bú, phụ nữ đang ở trong quá trình thay đổi về hormones sau sinh, kèm với căng thẳng rất lớn từ việc nuôi con, việc ăn thô thiếu chất có thể gây ra những hậu quả đáng tiếc về sức khỏe não bộ và thể chất. Đặc biệt những hệ quả về tâm thần hay tim mạch sẽ rất khó hồi phục vì khả năng tái tạo mô của tế bào cơ tim và tế bào thần kinh rất hạn chế nếu không muốn nói không thể tái tạo lại. Fruitarian, một nhánh đặc biệt của Ăn thô chỉ ăn toàn trái cây tươi cũng được phổ biến nhiều trên mạng xã hội. Nhưng nguy cơ của loại hình ăn uống này còn lớn hơn do bị giới hạn nghiêm ngặt hơn về lựa chọn thức ăn. Về bản chất, ăn chỉ trái cây không đủ cung cấp dinh dưỡng và có thể gây ra hàng loạt vấn đề về sức khỏe. Những thay đổi có vẻ có lợi trong một thời gian ngắn như thấy thoải mái hơn, da có vẻ đẹp hơn sẽ trở thành nguy cơ sức khỏe trong thời gian dài. Một làn da tươi tắn hơn lúc mới chuyển sang ăn thô hay fruitarian chẳng hạn, sẽ dần trở lên nhợt nhạt, "thô ráp" hơn do thiếu các dưỡng chất thiết yếu như các loại axit amin, các loại chất béo và khoáng chất cần thiết. Hãy nhớ rằng, những chuyển biến xấu cũng cần thời gian nên thường hay bị nhầm lẫn với thích nghi tốt lâu dài. Tựu chung, chế độ Ăn Thô có rất nhiều hạn chế về mặt dinh dưỡng, không phù hợp để thực hành trong thời gian dài. Tất nhiên việc chuyển qua chế độ ăn thô trong thời gian ngắn như một thay đổi lối sống lành mạnh cũng có thể tạo ra những hiệu quả tốt. Đừng quên rằng, một vài cuốn sách tham khảo hay một vài video Youtube không thay thế được khoa học về dinh dưỡng. Và luôn có nhiều hơn một lựa chọn ăn uống khỏe mạnh dành cho bạn. Điều quan trọng bạn phải cân nhắc cẩn thận những rủi ro và lợi ích tiềm ẩn trước khi áp dụng chế độ ăn này hay bất cứ chế độ ăn theo mốt nào . Đồng thời nói chuyện với chuyên gia chăm sóc sức khỏe hoặc chuyên gia dinh dưỡng để đảm bảo rằng nhu cầu dinh dưỡng của mình vẫn được đáp ứng bên cạnh các nhu cầu cải thiện sức khỏe khác.

Online Coaching & Training Concept - Khác biệt cốt lõi của PT & Coach

Online Coaching & Training Concept - Khác biệt cốt lõi của PT & Coach

Xem thêm: Setup Lịch tập (Trong các bài blog trên website, hai chữ tác giả, Vincent sẽ được dùng luân phiên thay thế cho nhau. ) Làm thế nào để PT/Coach có thể tối ưu hóa sức làm việc, huấn luyện hiệu quả 100%, mà không phải hi sinh thêm quỹ thời gian, không bị rối loạn thông tin ? Fitness Coach khác với PT ở điểm gì ? Coaching không phải "selling" vậy Kỹ năng nào thực sự cần nâng cấp để thực hiện điều đó ? Những câu hỏi này luôn thường trực với những người làm huấn luyện viên. Bản thân tác giả cũng nhận được khá nhiều từ các bạn tham gia Fitness Base và các bạn xem kênh YT Coach Vincent Fitness. Nhưng trước hết có thể nói, hệ thống huấn luyện ở các trung tâm quốc tế không có vị trí sale với nghĩa "bán hàng chốt deal", chỉ có vị trí tư vấn, giải đáp thắc mắc dịch vụ. Còn trong bài blog này sẽ thông qua những câu chuyện nổi bật trên thế giới để giúp bạn hiểu thêm một ngành nghề vẫn còn sơ khai tại Việt Nam với tuổi đời chưa tới 15 năm. VShred được mệnh danh Fitness Villain vì mang tới các thông tin không chính xác về huấn luyện, dinh dưỡng. Nhưng VShred cũng là một cách thức kinh doanh hấp dẫn nhờ chuyện dùng niềm tin vào idol của giới trẻ để bán các chương trình giảm cân - tăng cân giống nhau với giá cao cho tất cả mọi người. Từ tiếng Anh mô tả cho những chương trình thay đổi hình thể kiểu này là "cookies-cutter" còn ở Việt Nam mình gọi "lùa gà", một từ rất hay vì cứ còn "gà" sẽ bị lùa chứ không cần biết bạn bao nhiêu tuổi hay kinh nghiệm như thế nào. Và thực ra không chỉ Vshred, có rất nhiều fitness model, KOL/Influencer áp dụng cách thức kinh doanh tương tự...Hầu như các Fitness Influencer đều bán kèm các ebook chương trình tập luyện. Nhưng có bạn cũng sẽ hỏi, tại sao các chương trình của V-Shred áp dụng cho tất cả mọi người là sai, là "lùa gà" nhưng các ebook huấn luyện thay đổi hình thể của Jeff Nippard, Christian Thibaudeau, AthleanX lại không sai ? Câu trả lời của bản thân Vincent luôn là: Vì họ chỉ bán sách giá cao để bạn học và thực hành theo những hướng dẫn. Và với những kiến thức trên online của họ truyền tải, bạn đã đủ để tự thực hành như một PT mới vào nghề nên việc bạn mua để ủng hộ, mua để có sẵn một hệ thống các hướng dẫn giúp tiết kiệm thời gian, công sức mày mò hơn, điều này hoàn toàn bình thường. Còn nếu trong các giáo trình bắt buộc, bắt ép bạn phải làm điều này điều kia mới tạo ra kết quả như ý, một thứ vốn đã mơ hồ và duy ý chí nếu không đặt trong một đánh giá dựa trên hồ sơ thể chất đầy đủ , nó đã sai hoàn toàn. Tất nhiên không phải tất cả các chương trình đều tệ và bản thân tác giả cũng không đọc hết tất cả ebook các chương trình. Và chắc hẳn các bạn có thể vẫn cảm thấy không hài lòng vì có thể tác giả, Coach Vincent, cũng là người cung cấp dịch vụ coaching online nên dẫn tới thiên kiến (bias) để đưa ra những lý do trên cũng nhằm biện minh cho bản thân để "lùa gà". Bài blog này sẽ chia sẻ về training concept và cách thức "lùa gà" để bạn hiểu thêm cách tiếp cận của các dịch vụ huấn luyện thể chất. Cả online và offline. "Cookies Cutter" Program Lưu ý: Bài blog-long form này dùng bổ trợ thêm cho phần Program Design , thiết kế chương trình tập, đã trình bày trước đó trong Fitness Base, dành cho các bạn trong nhóm Fitness Pros vốn đã nắm rõ các khái niệm và concept huấn luyện của Vincent. Với các bạn đọc thông thường, có thể dùng tham khảo để hiểu thêm về cách tiếp cận công việc coaching. Những mô hình lùa gà như Vshred vận hành dựa trên việc fitness model đi cùng với những bộ óc marketing thiên tài. Bản thân Vince Saint, cá nhân đại diện cho thương hiệu V-Shred chỉ là một hình mẫu được trưng ra nhằm thu hút fan. Còn đằng sau đó là 3 thiên tài marketing lọc lõi để giúp hệ thống này vận hành và kiếm được hàng triệu đô. Thứ họ lợi dụng chính là hiệu ứng giả dược và "newbies gain" chỉ việc những người mới tập có tính thích nghi vô cùng tốt. Hay nói một cách khác, chỉ cần bạn tin tưởng và chịu tập luyện, bạn sẽ có kết quả dù tập theo YT hay tự tập với những bài tập đơn giản và cơ bản nhất. Việc đầu tiên họ cần làm là tìm kiếm một anh chàng có hình thể lý tưởng, cách diễn đạt tốt, vui vẻ, dễ gần và quan trọng hơn, anh ta cần thể hiện sự tự tin về những khái niệm khoa học "dễ hiểu" anh ta chia sẻ để khiến bạn tin tưởng. Các khái niệm như tạng người Somatotypes , EPOC (Excess Post-Exercise Oxygen Consumption) được thần thánh hóa và hiệu quả đi kèm một thân hình đẹp để gia tăng lòng tin. Việc này rất thu hút các bạn trẻ ít kinh nghiệm, kiến thức dễ bị thao túng tâm lý. Không chỉ ở khía cạnh quảng cáo, hiệu quả những chương trình này mang lại còn dựa trên hai nguyên tắc: Hiệu ứng giả dược và Tính thích nghi của người mới, còn gọi newbie gain. Hai nguyên tắc này rất quan trọng với việc kinh doanh và có thể giúp bạn trả lời câu hỏi, tại sao người ta luôn nhắm đến người mới. Cơ thể con người có tính thích nghi tuyệt vời, và với người mới tập, bạn có thể coi như nhận một "cú shock" khi bắt đầu nâng tạ. Cú shock này dẫn đến việc cơ thể phải mau chóng thích nghi để đáp ứng với áp lực bạn đặt lên (Tuân theo hai nguyên lý GAS và SAID ). Nói đơn giản, chỉ cần bạn không tập ngu, bạn cứ tập luyện sẽ có một kết quả nhất định. Kết quả này được tăng cường thêm nhờ hiệu ứng giả dược, niềm tin vào idol với đầy sự hào hứng của những người mới. Còn việc kết quả này có tốt hay không, có xứng đáng hay không, chẳng bao giờ quan trọng đối với các đơn vị bán hàng hay kinh doanh dịch vụ cả. Bạn trả tiền mua, bạn có một kết quả nhất định, vậy là xong ! Như việc khiến bạn mất nước để giảm 1,2kg/tuần bằng một viên uống thảo mộc nào đó, vậy cũng xong. Tất nhiên thể chất của chúng ta luôn có nhiều biến số mà những mô tả sơ sài như số tuổi, cân nặng, chiều cao, mức độ hoạt động, vốn dùng để ước lượng TDEE, không thể chuyển thành mã hóa phù hợp với chuyện giảm cân hay tăng cân chung chung. Trong đó sẽ có rất nhiều người không phù hợp với các chương trình này, bao gồm cả những người không mua mà chỉ xem các kiến thức Vshred chia sẻ. Điều này tạo ra một nguy cơ dù có thể không ảnh hưởng lớn tới sức khỏe nhưng sai trái về mặt nguyên tắc. Nhưng họ để "hốt bạc" càng nhanh càng tốt buộc phải bỏ qua điều này hoặc, cứ kiếm tiền trước đi rồi tính sau. Còn các thứ khác biệt trong hồ sơ thể chất của từng khách hàng, họ vốn chẳng cần lo trừ khi gặp vấn đề khiếu nại. Với các chương trình của VShred, theo đánh giá của nhiều huấn luyện viên khác, thậm chí không cần lo đến điều này, vì chúng vốn rất sơ sài với các bài tập căn bản được sắp xếp tùy ý, hướng tới việc sao cho mới lạ hơn việc có tính khoa học. Hiển nhiên bạn tập HIIT theo kiểu "múa may nhẹ nhàng" sẽ chẳng mấy khi có vấn đề. Còn chuyện bạn bỏ hàng trăm đô ra để mua lịch tập kiểu này, đó vốn là sai lầm bạn phải tự chịu. Còn về bản chất, các chương trình kiểu này vốn không có bất cứ "concept" gì về mặt huấn luyện. Thậm chí có người còn nhận xét, chỉ mất 5 phút để viết ra các lịch tập kiểu này hoặc nhanh hơn nếu bạn search google với hai từ "work-out program". "Training Concept" Xét tới khía cạnh lịch sử, Pre-Exhausting Training, được sáng tạo ra bởi Kẻ Hủy Diệt Arnold Schwarzenegger có thể được coi như concept training đầu tiên. Concept này được ghi chép trong cuốn sách "The New Encyclopedia of Modern Bodybuilding" (Tạm dịch: Tân Bách Khoa Toàn Thư của Thể hình hiện đại), một trong những cuốn sách tạo dựng nên những nền móng lý thuyết chuyên biệt dành cho thi đấu thể hình. Trong khi đa phần các vận động viên thể hình, kể cả ngày nay, chỉ biết ăn, ngủ, tập với sự trợ giúp của các loại PED để có một thân hình "cơ bắp nhất ít mỡ nhất", cuốn sách đã mang đến những khái niệm sơ khai có tính chất "khoa học" cho việc này. Concept này của Arnold dựa trên quan niệm "gây sốc" cho cơ bắp càng mạnh càng tốt để từ đó tạo ra kích thích cần thiết. Trước khi thực hiện bài squat để tập phần cơ đùi, sẽ là một phần tập bài leg extension trên máy để khiến cơ bắp mệt nhoài từ trước (pre-exhausting) từ đó cơ bắp sẽ bị gây sốc hơn khi tập bài squat tiếp theo. Quan niệm "phá vỡ càng nhiều cơ bắp tại phòng gym càng tốt cho tăng trưởng" dẫn tới việc tìm cách gây sốc này tất nhiên không còn đúng ở thời điểm hiện tại. P90X chính là một ví dụ tiêu biểu cho một training concept nổi tiếng, có thể được ghi vào sách vở để hướng dẫn cho các huấn luyện viên hình thể. Bản thân concept tập luyện này từng trở thành công thức cho những thân hình gây sốt trên màn ảnh Hollywood. Thậm chí đến thời điểm hiện tại, trong bộ phim Central Intelligence của Kevin Hart và Dwayne "The Rock" Johnson, concept này vẫn còn đề cập đến như một hình mẫu huấn luyện để có được thân hình cơ bắp nhất. P90X bao gồm một chuỗi các bài tập cường độ cao, được thực hiện liên tục, với thời lượng 1-1,5h một ngày và tập luyện 6-7 ngày một tuần trong vòng 90 ngày. Cốt lõi của P90X là gây shock toàn bộ hệ thống cơ thể của bạn với "circuit training", tập luyện từ bài này qua bài khác, từ loại hình này qua loại hình khác, như kickboxing qua yoga, từ khía cạnh thể chất này qua khía cạnh thể chất khác, như sức mạnh cơ bắp (strength) qua các bài tập tạ kết hợp sức bùng nổ (power) với các bài plyometrics. Để gây shock với mức độ lớn như vậy, lựa chọn P90X sẽ cần những sự thận trọng, đa phần đi kèm một huấn luyện viên chuyên nghiệp và không phù hợp với người mới hay có vấn đề về xương khớp. Tất nhiên với việc quảng cáo đi kèm các ngôi sao Hollywood, những thứ này có thể không được đề cập tới. Trong thế giới Youtube Fitness, một ví dụ quen thuộc hơn với các bạn trẻ, chính là Jeff Nippard, người cũng phát triển theo một concept huấn luyện Powerbuilding, kết hợp giữa powerlifting và bodybuilding đi kèm với tập full-body. Cũng phải nói rõ thêm rằng, chỉ có chương trình Powerbuilding của Jeff mới có tính concept riêng, còn các chương trình khác, chưa chắc. Ít nhất là với chương trình "tăng cơ giảm mỡ" bản thân tác giả đã được tham khảo. Xuất thân là một vận động viên thể hình tự nhiên và thi đấu cả powerlifting, Jeff Nippard về chuyên môn huấn luyện được chứng nhận như một Strength Coach, theo đánh giá của tác giả, có trình độ rất tốt. Từ kinh nghiệm và kiến thức sở trường này, Jeff Nippard kết hợp hai yếu tố giữa powerlifting và các bài tập dành cho bodybuilding xây dựng cơ bắp dưới nguyên tắc: Khỏe đi kèm với tăng cơ. Xét theo các nguyên lý tăng trưởng cơ bắp, concept này đi theo hướng tạo ra áp lực cơ học kèm sự bùng nổ để kích thích tăng trưởng. Và như đã chia sẻ về nguyên lý chuyên biệt hóa , với những người mới tập, hai khía cạnh thể chất phì đại cơ bắp và sức mạnh cơ bắp có thể bổ trợ lẫn nhau, phát triển song song với nhau. Hay như concept FST-7 của Hany Rambod dành cho các vận động viên thể hình dựa trên việc tăng cường áp lực chuyển hóa tối đa nhất kết hợp với việc quản lý, giám sát giai đoạn phục hồi. Một concept rất thú vị song có phần ít quen thuộc hơn với các bạn trẻ là Neurotyping của Christian Thibeaudau, một Strength Coach ở đẳng cấp tinh anh thế giới, làm việc với các đội tuyển các vận động viên thể thao tầm cỡ và cả thể hình. Với kiến thức và kinh nghiệm từ tệp khách hàng của mình, Neurotyping dựa trên một nguyên lý rằng mỗi người khác nhau sẽ có "tính cách tập luyện" khác nhau. Một người vốn lười, hay e ngại, kém bùng nổ, linh hoạt sẽ khó thích ứng và theo đuổi một chương trình đòi hỏi sức mạnh cường độ cao, áp lực chuyển hóa lớn. Và trong tập luyện, sự kiên trì nhất quán (consistency) quyết định rất nhiều đến thành quả. Nên chọn ra một chương trình phù hợp với Neurotyping của bạn sẽ giúp tối ưu được vấn đề này. Bản thân tác giả xây dựng concept Total Fitness, gắn liền tập luyện - dinh dưỡng với lifestyle, như một chuỗi mắt xích mà các yếu tố gắn chặt với nhau. Tất nhiên bản thân tác giả là một Fitness Coach, không phải một Strength Coach có thể giúp bạn trở thành vận động viên đạt thành tích cao ở các môn sức mạnh. Fitness Coaching đương đầu với lối sống hàng ngày hơn thi đấu. Các huấn luyện viên như Jeff hay Christian, có thể được coi theo mô hình huấn luyện thể chất truyền thống, khi nghĩ tới các concept thường nghĩ tới việc tập luyện làm trung tâm, xây dựng chương trình xoay quanh việc tập luyện. Nhưng việc người tập có thích nghi với việc tập luyện hay việc tập luyện phải thích nghi với từng người khác nhau luôn trở thành chủ đề cần cân nhắc với các nhóm dân số không có lối sống gắn chặt với rèn luyện thể chất. Đặc biệt với thời đại công nghệ hiện tại, lối sống của chúng ta đã rất khác trước kia. Và tất nhiên sức ảnh hưởng của lối sống đến sức khỏe và ngược lại, sức khỏe đến lối sống, cần phải được đánh giá lại. Các vấn đề sức khỏe từ lối sống hiện tại ngày càng nảy sinh nhiều hơn những thập kỷ trước. Đại dịch thừa cân béo phì cũng vốn được nhiều chuyên gia gọi là một bệnh chứng từ lối sống (lifestyle disease). Trong bài viết Metahuman , tác giả cũng đã đề cập qua vấn đề này. Và bạn phải thích ứng, nhiều khi thay đổi hình thể, để có một tình trạng thể chất tốt nhất phù hợp với lối sống của mình. Tất nhiên, có những điểm trong lối sống ảnh hưởng đến sức khỏe cần phải điều chỉnh và ngược lại. Các chương trình thay đổi hình thể như Pump Hero, Qik Recomp, Jacked Up hay 6paks Protocol đều hướng tới việc này đi kèm theo tính kinh tế trong huấn luyện ( Training Economy ). Với cuộc sống bận rộn và mục tiêu không phải để thi đấu của hầu hết mọi người, việc "hành xác" cả thể chất và tinh thần 6 ngày/tuần tại phòng gym vốn đã sai về nguyên tắc huấn luyện. Concept này cũng đặt mối quan hệ giữa Fitness & Lifestyle lên trên hết và hướng tới việc làm mối quan hệ đó ngày càng lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn, tối ưu hơn. Về mặt triển khai chính là cụ thể hóa bằng việc tìm ra điểm cân bằng, xây dựng nền tảng thể chất và nâng cao mind-body-spirit để từ đó đạt được một tình trạng tốt nhất cho cuộc sống của bạn. Cách tạo training concept cho bản thân Bạn có thắc mắc tại sao FST-7 được chia sẻ miễn phí nhưng rất nhiều người không tập luyện theo được ? Vì mấu chốt của việc thực hành theo một concept nằm ở việc hiểu rõ nó một cách cụ thể đến mức nào chứ không nằm ở việc dựa vào cảm giác thấy "rất pump". Mọi người hay nói phù hợp nhất là tốt nhất nhưng làm thế nào biết một thứ phù hợp nhất với mình mà không phải mất thời gian "thử sai" ? Concept tốt nhất chính là concept bản thân hiểu rõ. Tất nhiên nhiều bạn có thể thấy việc này kiểu phức tạp hóa vấn đề đơn giản "cứ ăn và tập thôi" nhưng nếu bạn làm PT/Coach mà không có cách tiếp cận riêng, concept riêng, tôi khẳng định bạn sẽ khó tiến xa trong nghề nghiệp hoặc nâng cao thu nhập từ chuyên môn. Việc có concept và cách tiếp cận riêng giúp bạn làm chủ công việc của mình và gây ấn tượng với cả khách hàng tốt hơn. 1. Một mục tiêu thể chất cụ thể rõ ràng. Ở đây cần phải nhắc lại là mục tiêu thể chất, không phải mục tiêu ngoại hình. Như ở concept PowerBuilding của Jeff Nippards, mục tiêu cần hướng tới việc nâng thành tích và độ thuần thục các bài powerlifting kết hợp với các bài cô lập bổ trợ để từ đó tạo ra hiệu quả tăng trưởng về mặt cơ bắp cả về sức mạnh lẫn độ phì đại. Mục tiêu của FST-7 là tăng cơ bắp với điều kiện tốt nhất dành cho những người yêu thích thể hình. Mục tiêu của Neurotyping là tạo ra một chương trình rèn luyện sức mạnh mà dựa vào việc phân hóa kiểu "tính cách tập luyện" giúp người tập gắn bó lâu dài nhất. 2. Chọn thế mạnh của mình làm cốt lõi của concept. Nếu bạn hiểu rõ về powerlifting hay sport conditioning hướng tới một môn thể thao nào đó, bạn có thể lấy chúng làm xương sống cho concept của mình. Còn nếu bạn mạnh về dinh dưỡng, như các bạn nutritionist, nutrition coach, bạn có thể chọn các kế hoạch dinh dưỡng làm điểm trung tâm. PT với Fitness Coach cũng sẽ có thế mạnh khác nhau ở phần này. Tại sao tôi lại phải kê đơn tập luyện với một lịch tập như thế này cho một mục tiêu, một nhóm đối tượng. Cùng một bài Bench Press, mỗi người tập sẽ đều khác nhau, kể cả góc độ kỹ thuật lẫn hiệu quả, vậy yếu tố cốt lõi nằm ở việc tìm ra cách tối ưu nhất cho bài tập này hay cứ phải thay đổi bài tập với mỗi người khác nhau ? Những câu hỏi như vậy giúp bạn tìm ra cách tiếp cận và thế mạnh riêng của bản thân. 3. Có một khía cạnh mang lại hiệu quả rõ rệt, cụ thể trong concept của mình. Không chỉ để PR, việc xây dựng lên các concept huấn luyện tất nhiên đều cần có gì mới để mang lại hiệu quả tốt hơn các chương trình khác. Vì nếu không có gì mới, gây hứng thú hơn, bạn không cần mất thời gian cho chuyện này làm gì. Intermittent Fasting đi kèm với hàng loạt cách triển khai như 16:8, 20:4, 5:2 hay cách ngày chẳng hạn. Keto Diet khác với các loại hình ăn Low-Carb khác nhờ dựa vào quá trình "ketogenesis" khi lượng đường huyết hạ thấp và không được nạp thêm chẳng hạn. Tất nhiên, những nguyên lý này cần dựa trên khoa học và bằng chứng khoa học đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu và được đông đảo cộng đồng chấp nhận. 4. Thêm vào các yếu tố bổ trợ để giúp mang lại hiệu quả và hạn chế các ảnh hưởng xấu . Nếu bạn lấy dinh dưỡng làm chủ đạo, chắc chắn bạn vẫn cần có phần hướng dẫn tập luyện để hỗ trợ thêm cho concept của mình. Tất nhiên mọi thứ phải kết hợp với nhau tránh chuyện tập quá mức dinh dưỡng có thể đáp ứng hoặc ngược lại. Chưa kể phải thêm vào các yếu tố lifestyle, một thứ rất quan trọng trong thế giới hiện đại. 5. Đóng gói thời gian. Dù bạn có hiểu về huấn luyện phân kỳ hay không, bạn cũng cần đóng gói thời gian chương trình huấn luyện của bạn. Có thể là 90 ngày như P90X hay theo mùa cutting/bulking của vận động viên thể hình. Một chương trình huấn luyện không có hạn định có nghĩa huấn luyện viên không nắm chắc hoặc biết rõ mình phải làm gì tiếp theo hay chương trình sẽ đi đến đâu. Đây cũng là yếu tố khiến cho các chuyên gia bất bình với các loại hình ăn kiêng được quảng bá theo mốt như Ăn Thô Fruitarian , Keto Diet ...vì sự mù mờ không rõ hạn định. Một chương trình mà mỗi người khác nhau cần thời gian khác nhau và hiệu quả cũng khác nhau cho thấy bản chất lý thuyết khung tạo nên xương sống của chương trình đó có vấn đề. 6. Kết quả thể chất cụ thể. Chưa nói tới concept, một chương trình huấn luyện nếu chỉ có kết quả chung chung mơ hồ như giảm 10kg/tháng hay lấy tiêu chuẩn hình thể làm kết quả, đó là một sự đánh cược trên sức khỏe. Đặc biệt là các chương trình lấy hình thể của bản thân người huấn luyện viên ra làm tiêu chuẩn cho sự thành công. Chắc hẳn bạn phải hiểu rằng, nếu xét về thành công ở khía cạnh hình thể, Cbum, Jeremy Buendia, những nhà vô địch Mr.Olympia ở hạng mục thi của họ mới là tiêu chuẩn cao nhất. Nhưng chắc chắn sẽ không có concept hay chương trình huấn luyện nào để giúp bạn thành Cbum hay kể cả những fitness model đình đám nhất trên TG. Kết quả thể chất của một concept cần cụ thể hóa, cá nhân hóa với rất nhiều chỉ số để giúp theo dõi, điều chỉnh. Giống như concept của 6paks protocol dựa theo mức độ %body fat giảm xuống tương ứng 20-15-12-10% chia ra thành những phân kỳ để kiểm soát giúp đạt được chuyện này. Tất nhiên tập luyện để nhìn săn chắc hơn, đẹp lên theo một tiêu chuẩn chung đương thời là nhu cầu chính đáng. Nhưng không thể lấy một tiêu chí mang tính chủ quan của người khác để áp đặt cho sự thành công trong một chương trình. Trừ trường hợp "tự luyến" quá cao mới nghĩ rằng hình thể của mình là một tiêu chuẩn gì đó đẹp nhất mà mọi người phải hướng đến. 7. Nhóm hồ sơ thể chất phù hợp. Dù giảm cân, tăng cơ hay chỉ rèn luyện thể chất cơ bản, không có một chương trình áp dụng hết cho tất cả mọi người. Kể cả các concept huấn luyện tốt nhất, dễ ứng dụng nhất cũng chỉ đáp ứng được một nhóm đối tượng cụ thể. Có rất nhiều biến số khác nhau trong cuộc sống của một đối tượng, ví dụ như việc thời gian tập, thời gian ăn khác nhau. Cùng số tuổi 27, chiều cao 1m6, cân nặng 80kg, cùng 20% body fat, cùng cần giảm cân, nhưng một người chỉ có thể tập luyện vào buổi sáng và bận rộn chuyện công việc, gia đình tới tối sẽ khác một người có thể thoải mái tập luyện với lối sống nhàn hạ. Một chương trình giống như một bộ khung nên nếu cái gì cũng tùy biến được, linh hoạt được, sẽ phá nát bộ khung đó. Đây cũng là lí do các chương trình kiểu như Jeff Nippard sẽ hướng tới đối tượng người mới tập, chủ yếu dựa vào nguyên lý "cứ tập sẽ có hiệu quả thay đổi". Còn một concept giảm cân đúng nghĩa, sẽ cần nhìn vào hồ sơ thể chất phù hợp hay không. Có thể có một vài khoảng linh hoạt nhất định nhưng không phải tất cả mọi người đều phù hợp. Như concept Qik Recomp giúp giảm cân nhanh cho người mới tập khỏe mạnh (kinh nghiệm dưới 1 năm), nếu bạn thuộc nhóm trên 25% body fat, sức khỏe thể chất yếu, sẽ không phù hợp với bạn. Bản thân tác giả từng từ chối nhiều trường hợp các bạn sinh viên ở Nhật phải làm đêm, ngày đi học bận rộn nhưng muốn theo 6paks protocol. Tất nhiên nhưng loại hình "giảm cân theo mốt" hay các chương trình chỉ có cái tên để PR có thể đáp ứng được với tất cả mọi người. Vì đây chỉ là chiêu trò marketing, vốn tập trung vào việc thu hút khách hàng đăng kí trả tiền trước, còn lại khi khách hàng gặp vấn đề gì sẽ xử lý sau. Với các vấn đề về tập luyện, chỉ cần bạn không khiếm khuyết về vận động, sẽ dễ dàng thích nghi. Nhưng đừng quên rằng, dinh dưỡng và lối sống mang tính cá nhân rất cao. Fitness Base - nền tảng kiến thức chuyên nghiệp tiêu chuẩn quốc tế dành cho PT/Coach Training Concept vs Online Coaching

Anorexia - Chán ăn tâm thần

Anorexia - Chán ăn tâm thần

Anorexia Nervosa, Chán ăn tâm thần, thường được gọi đơn giản là Anorexia, chỉ một chứng rối loạn ăn uống được đặc trưng bởi trọng lượng cơ thể thấp bất thường, nỗi sợ tăng cân dữ dội và nhận thức lệch lạc về cân nặng. Những người mắc chứng chán ăn coi trọng việc kiểm soát cân nặng và hình dáng của họ một cách quá mức, sử dụng những nỗ lực cực độ có xu hướng gây trở ngại đáng kể cho cuộc sống của họ. Chán ăn tâm thần xảy ra chủ yếu ở trẻ em gái và phụ nữ trẻ. Khởi phát thường ở giai đoạn thanh thiếu niên và hiếm khi sau 40 tuổi với hai hình thức được nhận diện rõ ràng nhất là kiểu hạn chế thức ăn và kiểu rối loạn cuồng ăn/tự đào thải thức ăn . Trường hợp sau có nghĩa, bệnh nhân ăn nhiều tới mức điên cuồng nhưng tự dùng các biện pháp đào thải (tự nôn) và/hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu, hoặc rửa ruột. Nhiều bệnh nhân chán ăn tâm thần cũng tập thể dục quá mức để kiểm soát trọng lượng. Ngay cả những bệnh nhân xuất hiện gầy quá mức vẫn có xu hướng hoạt động rất tích cực (bao gồm theo đuổi các chương trình tập luyện cường độ cao). Nguyên nhân Nguyên nhân gây ra bệnh chán ăn tâm thần tổng hợp từ nhiều yếu tố như bộ gen, tình trạng thể chất, môi trường cho đến vấn đề tâm lý. Trong đó vấn đề tâm lý đến từ thói quen ăn kiêng cực độ và ám ảnh về ngoại hình trở thành một nguyên nhân nổi bật. Đặc biệt trong những môi trường tạo áp lực về ngoại hình (nghề người mẫu, múa, diễn viên...) hoặc văn hóa "body-shaming" vinh danh những cá nhân có hình thể thon gọn quá mức. Chán ăn tâm thần có liên quan đến sự không hài lòng về cơ thể, chủ nghĩa cầu toàn và các rối loạn lo âu như rối loạn lo âu xã hội, rối loạn lo âu tổng quát và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) ( Link ). Để ngăn ngừa tăng cân hoặc tiếp tục giảm cân, những người mắc chứng chán ăn thường hạn chế nghiêm ngặt lượng thức ăn họ ăn. Họ có thể kiểm soát lượng calo bằng cách nôn sau khi ăn hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng, hỗ trợ ăn kiêng, thuốc lợi tiểu hoặc các biện pháp thụt tháo. Họ cũng có thể cố gắng giảm cân bằng cách tập thể dục quá sức. Các chứng ám ảnh về ngoại hình Bigorexia , ăn kiêng cực độ loại bỏ một nhóm thức ăn, ám ảnh giữ dáng tạo ra ám ảnh ăn uống (Orthorexia) thường làm tiền đề cho chán ăn tâm thần. Tại Mỹ, có tới 35-57% các cô gái vị thành niên tham gia vào chế độ ăn kiêng cấp tốc, nhịn ăn, tự gây nôn, dùng thuốc giảm cân hoặc thuốc nhuận tràng, thụt tháo ( Link ). Trong một nghiên cứu khác, 46% trẻ em 9-11 tuổi thừa nhận thỉnh thoảng hoặc thường xuyên theo chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt ( Link ). Hệ quả Chán ăn tâm thần có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng, lâu dài đến sức khỏe. Nó có thể gây hại cho tim, hệ tiêu hóa, xương, răng và miệng. Nó cũng liên quan đến trầm cảm, lo lắng, tự làm hại bản thân và có ý nghĩ và hành vi tự tử ( Link ). Các than phiền về đầy bụng, khó chịu ở bụng, và táo bón và các vấn đề tiêu hóa khác rất phổ biến. Hầu hết phụ nữ mắc chứng chán ăn tâm thần đều bị ngừng kinh nguyệt. Bệnh nhân thường mất quan tâm đến tình dục. Trầm cảm xảy ra một cách thường xuyên. Một số ảnh hưởng lâu dài của chứng chán ăn có thể bao gồm ( Link ) ( Link ): Tim và mạch máu: Với chứng chán ăn tâm thần, một số người có thể bị nhịp tim không đều, nhịp tim chậm và huyết áp thấp. Ngoài ra, một số người có thể bị lưu thông máu kém, thiếu máu và cảm thấy lạnh liên tục. Khối lượng cơ tim, kích thước buồng tim và lượng máu bơm ra đều giảm, sa van hai lá thường được phát hiện. Một số bệnh nhân gặp hội chứng khoảng QT kéo dài (ngay cả khi được nhịp tim đã được hiệu chỉnh), cùng với các rối loạn điện giải có thể dẫn đến rối loạn nhịp tim ( Link ). Đột tử, hầu hết do nhịp tim nhanh và bất thường, do vậy có thể xảy ra. Mất chu kỳ kinh nguyệt và khả năng sinh sản: Đối với những người phụ nữ khỏe mạnh trong độ tuổi sinh sản, kinh nguyệt không đều hoặc không đều thường do chứng chán ăn tâm thần. Điều này xảy ra do sự thay đổi nội tiết tố và cơ thể cố gắng bảo tồn năng lượng trong khi bị suy kiệt về dinh dưỡng từ chế độ ăn. Một số người cũng có thể bị mất khả năng sinh sản không thể phục hồi do bị chán ăn tâm thần. Đường tiêu hóa: Nhiều biến chứng đường tiêu hóa có thể do chán ăn tâm thần, bao gồm táo bón, liệt dạ dày, bệnh gan, đầy hơi, đau bụng và loét dạ dày. Sự mất nước và kiềm chuyển hóa có thể xảy ra, K và/hoặc Na huyết tương có thể thấp. Tất cả đều có thể trầm trọng hơn khi bệnh nhân cố tình nôn ói hoặc dùng các biện pháp hạn chế thức ăn như thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu, thụt tháo. Mật độ xương giảm do thiếu khoáng và mất nước. Với các chế độ ăn kiêng như Ăn thô, ăn Fruitarian vì các chất khoáng thiết yếu như canxi, magie, sắt...từ thực vật được hấp thụ kém hơn do đi kèm với các chất kháng dinh dưỡng (oxalates, phytic acid...), chất xơ. Nhất là khi chúng chưa được nấu chín. Bất thường nội tiết là phổ biến trong chán ăn tâm thần; chúng bao gồm: + Nồng độ hóc môn tuyến sinh dục thấp + Giảm nhẹ mức thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3) + Tăng tiết cortisol Ở những bệnh nhân chán ăn tâm thần lâu dài gây ra suy dinh dưỡng nặng, hầu như mọi hệ thống cơ quan trong cơ thể đều có thể bị ảnh hưởng. Quan trọng hơn, Chán ăn tâm thần được các chuyên gia xác định là một rối loạn tâm thần chết người làm tăng nguy cơ tử vong lên 5 đến 12 lần so với các nhóm dân số chung. Nếu không được điều trị, có tới 20% người mắc chứng này chết trong vòng 20 năm sau khi mắc bệnh. Trong khi nếu được điều trị, tỷ lệ tử vong giảm xuống còn 2-3%. Cứ 52 phút lại có một người chết vì biến chứng rối loạn ăn uống ở Hoa Kỳ ( Link ). Số liệu về rối loạn ăn uống nói chung Rối loạn ăn uống ảnh hưởng đến ít nhất 9% dân số trên toàn thế giới. ( Link ) 9% dân số Hoa Kỳ, tương đương 28,8 triệu người Mỹ, mắc chứng rối loạn ăn uống trong đời ( Link ). Chưa đến 6% người mắc chứng rối loạn ăn uống được chẩn đoán y tế là “thiếu cân.” Rối loạn ăn uống là một bệnh tâm thần nguy hiểm bậc nhất, chỉ đứng sau quá liều ma túy. 10.200 ca tử vong mỗi năm là kết quả trực tiếp của chứng rối loạn ăn uống—tức là cứ 52 phút lại có một ca tử vong tại Mỹ. ( Link ) Khoảng 26% người mắc chứng rối loạn ăn uống có ý định tự tử. ( Link ) Chi phí kinh tế của chứng rối loạn ăn uống là 64,7 tỷ đô la mỗi năm.( Link ) Dấu hiệu của chán ăn tâm thần Các dấu hiệu và triệu chứng thực thể của chứng chán ăn tâm thần có liên quan đến tình trạng đói. Chán ăn cũng bao gồm các vấn đề về cảm xúc và hành vi liên quan đến nhận thức không thực tế về trọng lượng cơ thể và nỗi sợ tăng cân hoặc béo phì cực kỳ nghiêm trọng. Có thể khó nhận thấy các dấu hiệu và triệu chứng vì những gì được coi là trọng lượng cơ thể thấp là khác nhau đối với mỗi người và một số cá nhân có thể trông không quá gầy. Ngoài ra, những người mắc chứng chán ăn thường ngụy trang cho tình trạng gầy gò, thói quen ăn uống hoặc các vấn đề về thể chất. Bệnh nhân thường phóng đại lượng thức ăn của họ và hành vi che giấu, ví dụ như gây nôn. Cuồng ăn/tự đào thải thức ăn xảy ra ở 30 đến 50% số bệnh nhân. Những người khác chỉ đơn giản hạn chế lượng thức ăn của họ. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh chán ăn tâm thân có thể bao gồm: ( Link ) ( Link ) Sụt cân nặng hoặc không tăng cân như mong muốn Ngoại hình gầy gò Công thức máu bất thường Mệt mỏi Mất ngủ Chóng mặt hoặc ngất xỉu Các ngón tay xanh xao Tóc mỏng, gãy hoặc rụng Lớp lông tơ mềm mại bao phủ cơ thể Không có kinh nguyệt Táo bón và đau bụng Da khô hoặc hơi vàng Không chịu được lạnh dù người khác chỉ thấy mát Nhịp tim bất thường Huyết áp thấp Mất nước Sưng tay hoặc chân. Các dấu hiệu hành vi phổ biến: Hạn chế tiếp nhận thức ăn dẫn đến trọng lượng cơ thể thấp Nỗi sợ bị thừa cân hay béo phì (được khẳng định bởi bệnh nhân hoặc biểu hiện dưới dạng hành vi gây trở ngại cho sự tăng cân) Rối loạn về hình ảnh bản thân (nhận thức sai về trọng lượng và/hoặc ngoại hình) Phủ định sự nghiêm trọng của bệnh tật Cách ngăn chặn & điều trị Điều khó khăn nhất là những người mắc bệnh này thường từ chối giúp đỡ hoặc chống đối việc người khác cho rằng họ đang gặp vấn đề ( Link ) ( Link ). Đặc biệt với tình trạng chán ăn tâm thần xuất phát từ ám ảnh ăn uống ( orthorexia ) kéo dài gây suy dinh dưỡng. Khi đó họ có xu thế áp đặt quan niệm cá nhân lên lựa chọn ăn uống của người khác, tự coi rằng mình vượt trội hơn những tiêu chuẩn thông thường. Cách ngăn chặn tốt nhất là để ý đến các dấu hiệu bất thường của việc tập luyện, dinh dưỡng, nghỉ ngơi và lifestyle để ngăn chặn ám ảnh ăn uống (orthorexia) và ám ảnh ngoại hình (bigorexia, body- dysmorphia). Đặc biệt với những người đang theo đuổi một sự nghiệp, một lối sống khắt khe với vẻ đẹp hình thể theo một hình mẫu tiêu chuẩn nào đó. Khi thấy một dấu hiệu bất thường, đa phần dễ nhận thấy ở thói quen ăn uống và tập luyện, hãy tìm hiểu và đưa ra lời nhắc nhở cảnh báo. Nếu câu trả lời bạn nhận về là "Không sao đâu, tôi biết mình làm gì mà", có thể đó là một dấu hiệu rõ ràng bắt đầu cho thấy những ám ảnh về tâm thần. Một người theo đuổi lối sống lành mạnh có tính khoa học cao sẽ luôn có lý do cụ thể cho tình trạng hiện tại của mình và sẵn sàng giải thích đầy cảm hứng về điều dó thay vì chống chế cho qua chuyện. Nếu bạn biết ai đó mắc chứng chán ăn, một trong những điều quan trọng nhất bạn có thể làm là ở bên họ và hỗ trợ họ. Bạn có thể hỗ trợ họ theo nhiều cách như sau: Hãy tiếp tục cố gắng mời họ tham gia các hoạt động bình thường bao gồm cả các bữa tiệc ăn uống nhẹ. Họ có thể không muốn ra ngoài hoặc tham gia các hoạt động này. Nhưng hãy nhớ rằng chán ăn tâm thần rất nguy hiểm với họ và tiếp tục cố gắng nói chuyện với họ và mời họ đi cùng. Đặc biệt với các sự kiện giống như trước khi họ gặp tình trạng chán ăn để họ làm quen rằng. Ngay cả khi họ không tham gia, họ vẫn muốn được mời vì nó sẽ khiến họ cảm thấy mình được coi trọng và không cảm thấy mình bị cô lập. Cố gắng không tổn thương lòng tự trọng của họ. Hãy cho cái tôi quá lớn của họ một bậc thang để bước xuống. Nếu trước đó họ "miệt thị" hay tranh cãi với những người có thói quen ăn uống khác mình, hãy tránh để họ tiếp xúc với những người này. Còn nếu họ gặp các vấn đề tâm lý dẫn đến chán ăn, hãy tìm cách bình ổn tâm lý của họ, nâng cao lòng tự trọng của họ. Tránh việc để họ biết rằng bạn nghĩ họ bị bệnh gì đó một cách sỗ sàng và cho họ biết rằng sự khỏe mạnh của họ rất quan trọng với bạn. Dành thời gian của bạn, lắng nghe họ và cố gắng không đưa ra lời khuyên hay chỉ trích. Điều này có thể khó khăn khi bạn sẽ phải tìm cách ngăn chặn những thói quen hay quan niệm có hại nhưng không được thể hiện sự không đồng ý một cách quá gay gắt. Hãy nhớ rằng, bạn không cần phải biết tất cả các câu trả lời và đây không phải cuộc tranh luận thắng thua. Điều quan trọng là chỉ cần đảm bảo rằng họ biết bạn luôn ở đó vì họ. Khuyến khích họ tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên nghiệp từ bác sĩ, chuyên gia tâm lý hoặc các huấn luyện viên phù hợp giúp họ khắc phục nguyên nhân. Điều này sẽ mang lại cho bạn bè hoặc người thân của bạn cơ hội tốt nhất để khỏi bệnh. Nhưng đây có thể là một trong những bước khó khăn nhất đối với người mắc chứng rối loạn ăn uống, vì vậy hãy cố gắng khuyến khích họ tìm kiếm sự giúp đỡ hoặc đề nghị đi cùng với họ.

Orthorexia - Ám ảnh ăn uống

Orthorexia - Ám ảnh ăn uống

Tháng 3 năm 2023, tại Phú Thọ, nam thanh niên 18 tuổi vào cấp cứu trong tình trạng liệt vận động hai chân, đại tiểu tiện không tự chủ, tê bì từ hai núm vú xuống sau khi tập gym quá độ. Cũng trong thời gian này, tại Đà Lạt, một huấn viện viên tử vong khi đang tập yoga một mình. Có rất nhiều tình trạng có thể được đưa ra chẩn đoán bởi các bác sĩ lành nghề nhờ vào chụp chiếu khám nghiệm tại cơ sở y tế. Nhưng có một tình trạng có thể là nguyên nhân đằng sau tất cả những chuyện này mà các bác sĩ điều trị thông thường sẽ không quen thuộc và không thể nghe người chết kể lại là Chán Ăn Tâm Thần . Năm 2022, Scott Murray , 27 tuổi, một KOL đầy triển vọng trong ngành fitness cũng ra đi vì cơ thể không chịu nổi áp lực vì ám ảnh ngoại hình "sáu múi". Cũng giống như chuyện khi được chia sẻ về Bigorexia , nhiều bạn "gymer" cho rằng các chuyên gia rảnh rỗi nên mới nghiêm trọng hóa vấn đề, ở Việt Nam, có thể khi nghe tới ám ảnh ăn uống, các bạn có thể cười cho qua. Nhưng nhìn vào các nhóm Facebook Ăn thô, Fruitarian, Eat Clean... với đủ chiêu trò "tai quái" về dinh dưỡng có tới hàng trăm nghìn người theo dõi, thực tế số người đang mắc phải chứng này phổ biến hơn những gì cộng đồng đang nhận thức được. Chẳng phải cách đây vài chục năm, chúng ta cũng chưa biết đến "Tự kỷ" là gì hay sao ? Bài viết này sẽ chia sẻ về một hội chứng ám ảnh ăn uống phổ biến hơn, có thể trở thành tiền đề của chán ăn tâm thần, là Orthorexia nersova. Orthorexia nersova ( Link ) là một rối loạn ăn uống được đề xuất đặc trưng bởi mối bận tâm quá mức với việc ăn thực phẩm lành mạnh. Thuật ngữ này được giới thiệu vào năm 1997 bởi bác sĩ người Mỹ Steven Bratman, M.D. Ông cho rằng những hạn chế về chế độ ăn uống của một số người nhằm tăng cường sức khỏe có thể dẫn đến những hậu quả không lành mạnh một cách nghịch lý, chẳng hạn như sự cô lập với xã hội, lo lắng quá độ, mất khả năng ăn uống theo cách tự nhiên, suy nghĩ ích kỷ, giảm sự quan tâm đến toàn bộ các hoạt động lành mạnh khác. Orthorexia trong trường hợp xấu có thể chuyển thành Aneroxia - chán ăn tâm thần. Và trong một số trường hợp có thể gây ra tình trạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong. Rất khó để xác định tỷ lệ phổ biến chính xác của orthorexia do tình trạng này chưa được công nhận như một bệnh trong y tế ( Link ). Orthorexia phổ biến nhất ở các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ ( Link ), Canada, Úc, Vương quốc Anh Đức ( Link ), Lebanon và Thổ Nhĩ Kỳ ( Link ). Các quốc gia này có xu hướng chú trọng nhiều đến hình thể, điều này có thể góp phần vào sự phát triển chứng orthorexia ở một số cá nhân. Điều quan trọng cần lưu ý là orthorexia có thể xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào chứ không chỉ giới hạn ở các quốc gia phát triển. Và như đa phần các rối loạn tâm thần về ăn uống, phụ nữ trẻ và các bé gái thường sẽ dễ mắc phải hơn. Những người mắc chứng orthorexia tham gia vào các hành vi ăn uống hạn chế như các nghi thức và tránh một số loại thực phẩm không nằm trong định nghĩa của họ là “sạch” hoặc “lành mạnh”. Những chế độ ăn kiêng này có thể nghiêm ngặt đến mức ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất hoặc tinh thần của những người tuân theo chúng. Không chỉ người ăn thuần chay vì lý do đạo đức, những loại hình ăn kiêng "cực đoan" như Ăn thô, Fruitarian, Eat Clean và kể cả các loại hình ăn kiêng theo mốt ( Fad Diet ) để giảm cân như Keto cũng có thể tạo ra sự ảnh hưởng đến tâm thần. Những người ăn theo mốt có thể dần tuân theo một cách ám ảnh các quy tắc mà họ đã tạo ra về loại thực phẩm nào tốt cho sức khỏe và loại nào không. Họ cũng có thể cảm thấy tội lỗi và lo lắng khi phải đối mặt với những thực phẩm không phù hợp với quy tắc của họ ( Link ). Đặc biệt với sự phát triển của các nhóm trên mạng xã hội tuyên truyền về những loại hình ăn uống này như những nghi thức tôn giáo và không có sự hiểu biết về khoa học dinh dưỡng. Mặc dù orthorexia không có tiêu chuẩn chẩn đoán chính thức, nhưng nó có các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến, bao gồm: - Trải qua nỗi sợ hãi mãnh liệt về thực phẩm “không lành mạnh” và tránh những thực phẩm đó - Bị ám ảnh hoặc quá bận tâm đến thực phẩm lành mạnh, dinh dưỡng và ăn uống - Cảm thấy tội lỗi khi đi chệch khỏi thói quen ăn uống nghiêm ngặt - Có định kiến và cách tiếp cận cứng nhắc đối với thói quen ăn uống của mình và người khác - Trải qua sự cô lập xã hội hoặc khó ăn uống với người khác - Cảm thấy vượt trội so với những người khác dựa trên thói quen ăn uống của họ Một điều bạn cần lưu ý là các triệu chứng này có thể khác nhau về mức độ nghiêm trọng và có thể không xuất hiện trong tất cả các trường hợp mắc chứng orthorexia. Các vấn đề sức khỏe có thể phát sinh từ orthorexia bao gồm suy dinh dưỡng, thiếu hụt vitamin và khoáng chất, và sự tự cô lập dần với cuộc sống xung quanh. Trong những trường hợp nghiêm trọng, orthorexia cũng có thể dẫn đến chán ăn tâm thần hoặc các rối loạn ăn uống khác như rối loạn tránh né thức ăn, ăn bẩn hoặc vô độ tâm thần. Các tips phổ biến nhất để ngăn chặn & điều trị orthorexia bao gồm: Như đa phần các chứng rối loạn tâm thần thời kỳ đầu, người đang phát triển chứng Orthorexia thường có hành vi ngụy biện để che giấu, phủ định mình đang gặp vấn đề hoặc chống đối sự trợ giúp từ người khác. Phát hiện sớm và nhận ra các dấu hiệu tiêu cực sẽ hữu ích trong đa số các trường hợp. Trang bị kiến thức về dinh dưỡng, giảm cân đúng cách sẽ giúp phá bỏ nguyên nhân gây ra hầu hết các trường hợp ám ảnh ăn uống. Thách thức những suy nghĩ tiêu cực: Những người mắc chứng Orthorexia có thể có những suy nghĩ tiêu cực về một số loại thực phẩm hoặc nhóm thực phẩm. Bạn có thể thách thức những suy nghĩ này và điều chỉnh lại chúng theo hướng tích cực, đúng đắn hơn. Luôn có nhiều hơn một chế độ ăn kiêng duy nhất, một loại thực phẩm duy nhất, để bạn có thể lành mạnh hơn, bền vững hơn cho tất cả các mục tiêu thể chất. Chỉ ra bản chất sai lầm, nhiêu khi là "lừa đảo", của các loại hình ăn kiêng theo mốt, ăn kiêng cực đoan và những cá nhân truyền bá các thông tin này nhằm trục lợi. Huấn luyện viên dinh dưỡng không thể thay thế bác sĩ trong việc chẩn đoán, điều trị bệnh và ngược lại, các bác sĩ, kể cả "bác sĩ dinh dưỡng" không thể huấn luyện giảm cân. Kéo họ ra khỏi "vũng bùn": Những người ám ảnh ăn uống thường tìm đến các đội nhóm có chung một "sở thích" để không cảm thấy mình bị cô lập. Và những hội nhóm này vì lợi ích riêng, có thể tìm cách tạo ra áp lực về tinh thần để các thành viên không thể rời khỏi vì sợ sẽ càng bị cô lập hơn. Hãy kiên quyết kéo họ ra khỏi những hội nhóm như thế và chăm sóc cho họ thật khỏe mạnh. Thực hành ăn uống linh hoạt: Những người mắc chứng Orthorexia có thể được hưởng lợi từ việc thực hành ăn uống linh hoạt, bao gồm việc cho phép bản thân ăn nhiều loại thực phẩm hơn và ít cứng nhắc hơn về các quy tắc ăn uống của họ. Giải quyết các vấn đề tâm lý ảnh hưởng: Orthorexia có thể là triệu chứng của các vấn đề cơ bản như lo lắng hoặc trầm cảm. Giải quyết những vấn đề này thông qua trị liệu hoặc các biện pháp can thiệp khác có thể giúp giảm nguy cơ tái phát chứng Orthorexia. Tập trung vào sức khỏe tổng thể: Thay vì chỉ tập trung vào việc ăn uống lành mạnh, có thể hữu ích nếu tập trung vào sức khỏe tổng thể và tận hưởng cuộc sống, bao gồm tập thể dục, kiểm soát căng thẳng và tăng cường các mối kết nối xã hội. Tìm kiếm sự trợ giúp của chuyên gia: Một chuyên gia sức khỏe và tâm lý có trình độ có thể cung cấp hỗ trợ và hướng dẫn để vượt qua chứng Orthorexia. Điều trị lâm sàng Hiện tại không có phương pháp điều trị lâm sàng nào được phát triển dành riêng cho chứng orthorexia ( Link ) do chưa phải một bệnh. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia về rối loạn ăn uống coi Orthorexia bao gổm tổng hợp các chứng chán ăn và/hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Các hình thức điều trị được khuyến nghị cho orthorexia bao gồm: - Tư vấn về cân nặng khỏe mạnh và phục hồi dinh dưỡng khi cần thiết - Tâm lý trị liệu, có thể giúp tăng sự đa dạng của các loại thực phẩm được ăn và tiếp xúc với các loại thực phẩm gây lo lắng hoặc sợ hãi - Liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT) là một loại trị liệu tập trung vào việc thay đổi các kiểu suy nghĩ và hành vi tiêu cực. Nó có thể có hiệu quả trong việc điều trị orthorexia bằng cách giúp cá nhân hiểu và thay đổi niềm tin lệch lạc của họ về thực phẩm và dinh dưỡng. ( Link ) Ở Việt Nam hiện tại, có thể chưa có sự nhận thức rõ ràng cũng như hệ thống chuyên môn để hỗ trợ trong việc điều trị các hội chứng phức tạp này. Nhưng với sự phát triển của nhiều hội nhóm online với nhiều cá nhân truyền bá các thông tin sai lệch về dinh dưỡng, các phương pháp ăn uống không lành mạnh, số người mắc chứng này có thể ngày càng nhiều hơn. Trong khi chưa có được ban ngành và giới chuyên gia chuyên biệt cho những hội chứng liên quan đến ám ảnh về dinh dưỡng, cung cấp kiến thức đúng và nâng cao nhận thức của cộng đồng là biện pháp hữu hiệu nhất. Và bất kể trong trường hợp bệnh chứng nào, việc ngăn chặn, phòng ngừa luôn tốt hơn việc để chuyện xảy ra rồi mới tìm cách cứu chữa.

Overload Principle - Chìa khóa để tăng trưởng

Overload Principle - Chìa khóa để tăng trưởng

Trong bài blog trước về GAS Principle (Nguyên lý thích ứng chung) bạn đã biết rằng, cơ thể chúng ta thích nghi với những kích thích từ tập luyện như thế nào. Và khi tập luyện một thời gian quá dài hoặc không đúng cách, cơ thể có thể bị hiện tượng kiệt quệ "overtraining" ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống. Để cơ thể thay đổi theo chiều hướng tích cực, chúng ta cần hiểu rõ một nguyên lý quan trọng khác - Nguyên lý quá tải (Overload Principles). Nguyên lý quá tải cũng là một trong 07 định luật nền tảng của Fitness mà bất cứ các PT, coach hay chuyên gia rèn luyện thể chất nào cũng cần nắm rõ. Hiểu một cách đơn giản, cơ thể thích nghi với những kích thích nên bạn cần phải tăng "sức ép" trên mức thích nghi để khiến cơ thể thay đổi hơn nữa. Nguyên lý này thường được áp dụng bằng cách tăng cường bốn yếu tố quan trọng của việc tập luyện. Tần suất(Frequency). Tần suất tập luyện thường được tính dựa trên số buổi tập trong một tuần của bạn. Tăng tần suất tập luyện có nghĩa thêm số buổi tập trong tuần của bạn. Trong một số trường hợp đặc biệt, số buổi tập có thể tăng lên trong một ngày thay vì tăng số ngày tập trong tuần. Cường độ (Intensity). Ngoài việc chăm chỉ hơn, bạn cần tăng độ nặng nhọc, độ khó để chinh phục những thành tích mới. Việc tăng cường độ cũng còn tùy thuộc vào loại hình tập luyện hay mục tiêu tập luyện của bạn. Để tăng cường sức mạnh cơ bắp, bạn cần nâng dần mức tạ, còn để tăng cường sức bền, bạn cần tăng thêm cường độ các buổi tập cardio. Thời lượng buổi tập (Duration). Cách tăng thời lượng buổi tập là cách dễ nhất để áp dụng nguyên lý quá tải. Tuy nhiên bạn cần cẩn trọng với cách này vì chất lượng buổi tập phải đặt lên trước thời lượng buổi tập. Một buổi tập nhàn nhãn bấm điện thoại và tán gẫu sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho bạn. Loại hình tập luyện (Type). Yếu tố này để cập đến các bài tập hoặc các loại hình tập luyện cụ thể. Tập với tạ chắc chắn sẽ khác khi tập với trọng lượng cơ thể. Bạn có thể điều chỉnh hay kết hợp các bài tập với nhau để làm quá tải một khối cơ bắp hoặc một nhóm cơ, một phần cơ thể nào đó. Tuy nhiên khi kết hợp các loại hình tập luyện bạn cần lưu ý đến nguyên lý can thiệp lẫn nhau (Interfering Principles) để tránh mất thời gian vô ích. Khi áp dụng "quá tải" đúng mực cơ thể sẽ thay đổi và tăng trưởng về sức bền, sức mạnh và kích thước cơ bắp. Nhưng nếu bạn áp dụng nguyên lý này một cách sai lầm, bạn có thể bị quá tải tới mức kiệt quệ và gây hại cho sức khỏe. Đây là sai lầm thường gặp phải ở những người đi tập với cái đầu lơ mơ không chịu tìm hiểu. Bạn hãy lưu ý rằng, tập luyện là để kích thích, và khi chất kích thích này vượt quá sức chịu đựng của cơ thể, những phản ứng tiêu cực sẽ xảy ra. Khi bạn gặp các triệu chứng sau đây, cần xem lại chương trình tập luyện của mình. - Không có sự tăng trưởng dù vẫn tập nặng - Huyết áp tăng cao và tim đập nhanh thường xuyên - Chán ăn và sụt cân - Mệt mỏi rã rời sau khi tập luyện - Khó ngủ - Cơ bắp tê mỏi thường xuyên - Cơ bắp mất nhiều hơn 3 ngày để hết đau mỏi sau tập Cách áp dụng nguyên lý Overload đúng cách Áp dụng nguyên lý Overload đúng cách thực chất là một yêu cầu bắt buộc của các PT, coach hay những người tập luyện thông minh. Có những cách thức như sau bạn có thể thực hành: Physical Assessment. Đánh giá thể chất. Trước khi bước vào phòng tập, hãy đánh giá thể chất của mình với các chỉ số cân nặng, sức khỏe, sức mạnh và sức bền. Thử các bài tập với tạ và các bài cardio để lựa chọn ra cường độ và loại hình tập luyện phù hợp. Periodization Huấn luyện phân kỳ. Một cách đơn giản, để biết mình có quá tải đúng mực không, bạn phải theo dõi và chia thành từng giai đoạn. Huấn luyện phân kì chia làm macrocycle (đại phân kì), mesocycle (tiểu phân kì) và microcycle (vi phân kì) giúp bạn điều chỉnh được tải trọng tập luyện kịp thời theo từng giai đoạn. (Xem thêm bài viết về Periodization để nắm rõ. Tracking progress. Theo dõi tiến trình . Luôn theo dõi tiến trình tăng trưởng để điều chỉnh các yếu tố then chốt trong tập luyện như thời lượng, tần suất, cường độ và loại hình. Full - Recovery. Hồi phục đầy đủ. Nếu bạn không thể hồi phục đầy đủ từ việc tập luyện, bạn sẽ không đạt được sự tăng trưởng về cơ bắp và sức khỏe như ý muốn. Việc áp dụng nguyên lý quá tải cần đi kèm với một kế hoạch nghỉ ngơi để phục hồi và theo dõi hiệu quả hoặc ảnh hưởng của tập luyện đến thời gian nghỉ ngơi. No all-out. Cố tập luyện tới kiệt sức là một hành động ngu ngốc. Việc tập luyện điên cuồng nhằm mục đích đốt cháy calories hay hành hạ cơ bắp thường dẫn tới hiện tượng overtraining gây hại cho sức khỏe. Hãy ghi nhớ câu "Train smarter not harder !". Cuối cùng, nguyên lý quá tải là một thiết luật căn bản, quan trọng trong rèn luyện thể chất. Tìm kiếm sự cân bằng phù hợp khi áp dụng nguyên lý này là điều cần thiết để có được hiệu quả mong muốn. Và khi kết hợp với huấn luyện phân kì trong một kế hoạch tập luyện tốt, bạn có thể tăng cường thể lực và đạt được các mục tiêu về thể thao và hình thể.

Sport conditioning &  Nguyên lý thích ứng chuyên biệt - SAID Principles

Sport conditioning & Nguyên lý thích ứng chuyên biệt - SAID Principles

Trong bài viết trước Vincent đã chia sẻ với các bạn về nguyên lý chuyên biệt hóa - Principle of Specificity trong việc rèn luyện thể chất. Trong bài viết này là một phần tiếp theo của nguyên lý này dưới một cách áp dụng khác cho việc tập luyện thể thao chuyên biệt và cả hồi phục sau chấn thương. SAID Principles - Nguyên lý thích ứng chuyên biệt Trong phục hồi thể chất và huấn luyện thể thao, nguyên tắc SAID có nghĩa rằng cơ thể con người có sự thích ứng chuyên biệt với từng loại sức ép áp đặt lên. Nguyên lý này cho thấy, với các yếu tố gây sức ép trên hệ thống con người, dù là cơ sinh học hay thần kinh, sẽ có một Sự thích nghi cụ thể với các nhu cầu được áp đặt đó (Specific Adaptation to Imposed Demands - SAID). Ví dụ khi bạn phải bốc vác hàng ngày qua ngày, bạn sẽ dần thích nghi với chuyện đó và nâng cao thành tích bốc vác của mình dần lên nhưng các kĩ năng khác như nâng tạ trong phòng gym hay leo trèo lại chẳng có bao nhiêu sự tăng lên nếu bạn không tập luyện chúng chuyên biệt. Hiểu được nguyên lý này sẽ giúp bạn có được sự tiến triển trong huấn luyện điều kiện thể thao và cả hồi phục chấn thương. Các nguyên lý trong huấn luyện điều kiện thể thao - Sport Conditioning Khi bạn muốn chơi một môn thể thao, bạn cần đáp ứng những "điều kiện" (conditioning) của môn thể thao đó đòi hỏi. Và như đã nói ở bài trước , muốn nhảy cao trước tiên phải có đủ sức để bật nhảy, những nguyên lý trong huấn luyện điều kiện thể thao là nền móng cho bất cứ phương pháp hay chương trình huấn luyện nào. Nhưng nguyên lý đó bao gồm: Sự khác nhau giữa các cá nhân: Mỗi cơ thể là độc nhất, kết quả huấn luyện của từng cá nhân khác nhau với mục tiêu khác nhau. Overload/Quá tải: Để tăng trưởng về sức khỏe, bạn cần tăng sức ép (cường độ, trọng lượng) trong quá trình tập luyện. Train harder than last time ! Progression/Tiến trình tăng trưởng: Khi nền tảng của bạn được xây dựng và nâng cao, bạn cần nâng cấp việc tập luyện cả về khối lượng công việc lẫn cường độ để có thể tăng trưởng lên cao hơn. Khả năng thích ứng khác nhau: Khả năng thích ứng của cơ thể với tiến trình tăng trưởng quyết định việc tập luyện. Không dùng sẽ mất: Muốn duy trì và nâng cao nền tảng điều kiện của mình, cần duy trì và nâng cao việc tập luyện. Chuyên biệt hóa: Tập luyện cần chuyên biệt hóa cho các kĩ năng và mục tiêu thể chất điều kiện của từng bộ môn, từng kĩ năng Một chương trình huấn luyện hợp lý nhất sẽ kết hợp nguyên lý thích ứng chuyên biệt (SAID Principle) và một phương pháp huấn luyện phân kỳ nhằm tăng cường nền tảng thể chất của bạn. Việc huấn luyện phải được chuyên biệt hóa, có mục tiêu để theo dõi từng phân kì nhằm giúp bạn đạt được sự tiến triển. Cách áp dụng SAID Principles để tiến triển Yếu tố quyết định sự thành công của việc rèn luyện thể chất là sự tiến triển qua từng thời gian. Dù bạn muốn giảm mỡ hay tăng cơ thành công, bạn vẫn cần tăng trưởng dần về mặt sức khỏe. Một chương trình huấn luyện tốt sẽ phải cụ thể hóa sự tăng trưởng này qua từng thời kì thay vì chỉ có cam kết về mặt kết quả. Như trong show truyền hình thực tế The Biggest Loser, rất nhiều người có thể giảm 50kg trong vòng vài tháng nhưng các thí sinh này đều không có tiến triển về sức khỏe. Vì mục tiêu của một gameshow là lượt view và chiến thắng chung cuộc nên việc bỏ qua sức khỏe và làm mọi cách để giảm cân nhanh nhất là điều có thể hiểu được. Tuy nhiên với chúng ta, để tập luyện hiệu quả dù bạn có tham gia thi đấu hay không, bạn vẫn cần sự tăng trưởng. Bạn có thể áp dụng những cách sau để có sự tiến triển trong rèn luyện thế chất: - Tập luyện các động tác đơn giản, cơ bản trước và nâng dần kỹ thuật lên - Tập luyện với tốc độ chậm sau đó mới nhanh dần - Tập luyện với kháng lực tăng dần - Tập luyện với quãng đường tăng dần - Tập luyện hai bên cùng lúc trước khi chuyển qua từng bên một - Tập luyện toàn thân trước khi tập luyện từng phần cơ thể - Tăng dần khối lượng tập luyện

bottom of page