My Items
I'm a title. Click here to edit me.
Phòng chống Bệnh dịch sau lũ lụt: Cá nhân bạn có thể làm gì ?
Thiên tai là những sự kiện thảm khốc xảy ra tự nhiên và có thể gây ra thiệt hại đáng kể cho cơ sở hạ tầng, tài sản và tử vong. Hầu hết các thảm họa liên quan, cả ở các quốc gia phát triển và đang phát triển, đều do lũ lụt gây ra với ước tính 1,81 tỷ người bị ảnh hưởng (chiếm 23% dân số TG). Trong số đó, 1,24 tỷ người ở Nam và Đông Á, Trung Quốc (395 triệu người) và Ấn Độ (390 triệu người) chiếm hơn một phần ba lượng phơi nhiễm với lũ lụt trên toàn cầu. ( Link ) Việt Nam chúng ta với đường bờ biển dài là một quốc gia dễ gặp phải các mối nguy về bão lũ. Xét dưới góc độ dân số gặp nguy cơ, Việt Nam xếp hạng thứ 3 về các quốc gia bị ảnh hưởng bởi lũ lụt trên toàn thế giới với 46% dân số bị ảnh hưởng.( Link ) Thảm họa bão lũ phá vỡ môi trường và cơ sở hạ tầng, dẫn đến việc tiếp xúc với mầm bệnh nhiều hơn. Hậu quả thường là sự gia tăng các bệnh truyền nhiễm khác nhau, đặc biệt là trong nhóm dân số dễ bị tổn thương và phải di dời. Các bệnh truyền nhiễm chính liên quan đến những thảm họa này bao gồm: Các bệnh lây truyền qua đường nước: Nước lũ có thể bị ô nhiễm bởi các tác nhân gây bệnh, dẫn đến bùng phát các bệnh như bệnh tả, sốt thương hàn và bệnh leptospirosis. Các bệnh lây truyền qua vật trung gian: Nước tù đọng tạo điều kiện cho muỗi sinh sản, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết và vi-rút Zika. Nhiễm trùng đường hô hấp: Nơi trú ẩn quá đông đúc và thông gió kém có thể tạo điều kiện cho các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp lây lan, bao gồm cả cúm và bệnh lao. Nhiễm trùng da và mô mềm: Các vết thương do thảm họa có thể bị nhiễm trùng, dẫn đến các tình trạng như viêm mô tế bào và nhiễm trùng vết thương. Nhiễm trùng đường tiêu hóa: Lũ lụt có khả năng gây hại nghiêm trọng đến vệ sinh và cơ sở hạ tầng, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về đường tiêu hóa ở những khu vực bị ảnh hưởng. Tiêu thụ thực phẩm hoặc đồ uống bị ô nhiễm hoặc tiếp xúc với bề mặt bị ô nhiễm cũng có thể dẫn đến viêm dạ dày ruột. Nhiễm trùng từ động vật: Lũ lụt có thể làm tăng sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng từ động vật theo nhiều cách vì nó phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên, đưa động vật đến gần con người hơn và làm tăng khả năng lây truyền bệnh. Trong thời gian lũ lụt, hệ thống thoát nước thải và nhà máy xử lý nước thải có thể bị quá tải, dẫn đến tràn nước thải và nước thải chưa qua xử lý làm ô nhiễm nguồn nước uống bằng phân động vật và các tác nhân truyền nhiễm khác, dẫn đến sự lây lan của các bệnh từ động vật như Chikungunya, Viêm gan A và E, Sốt thương hàn, Bệnh tả, Bệnh brucella, Sốt xuất huyết Crimean-Congo, Viêm não Nhật Bản, Bệnh dại, v.v. Phòng ngừa và kiểm soát là hại biện pháp cần tiến hành song song để đảm bảo sức khỏe của mọi người trong vùng bão lũ và kể cả thời gian sau khi bão lũ đã chấm dứt. Biện pháp Phòng ngừa Việc phòng ngừa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm sau thảm họa khí tượng thủy văn liên quan đến một cách tiếp cận đa diện: Nước, Vệ sinh cơ thể và Vệ sinh chung: Đảm bảo tiếp cận được với nước sạch, vệ sinh phù hợp và các cơ sở vệ sinh là tối quan trọng. Điều này bao gồm việc sử dụng các thiết bị lọc nước, các viên lọc nước, lắp đặt nhà vệ sinh di động và khuyến cáo việc thường xuyên rửa tay bằng nước sạch. Kiểm soát muỗi: Thực hiện các biện pháp kiểm soát quần thể muỗi, chẳng hạn như phun thuốc trừ sâu và phân phối màn chống muỗi đã qua xử lý, có thể làm giảm nguy cơ mắc các bệnh do vật truyền trung gian. Tiêm chủng: Các chiến dịch tiêm chủng phòng ngừa các bệnh như bệnh tả và cúm có thể giúp bảo vệ những nhóm dân cư có nguy cơ. Giáo dục sức khỏe: Giáo dục cộng đồng về các nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm và thúc đẩy các hành vi phòng ngừa có thể trao quyền cho các cá nhân thực hiện các biện pháp chủ động. Biện pháp kiểm soát Khi dịch bệnh bùng phát, các biện pháp kiểm soát nhanh chóng và hiệu quả là điều cần thiết để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh: Giám sát và phát hiện sớm: Thiết lập hệ thống giám sát dịch bệnh mạnh mẽ để phát hiện sớm các đợt bùng phát và ứng phó kịp thời. Phản ứng y tế: Triển khai các đội y tế để điều trị và chăm sóc, bao gồm thuốc kháng sinh cho các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn và thuốc kháng vi-rút cho các bệnh nhiễm trùng do vi-rút. Cô lập và kiểm dịch: Thực hiện các giao thức cô lập và kiểm dịch để ngăn ngừa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm cao. Tham gia cộng đồng: Thu hút các nhà lãnh đạo và thành viên cộng đồng tham gia vào các nỗ lực ứng phó để đảm bảo các biện pháp can thiệp phù hợp với văn hóa và hiệu quả. Cá nhân bạn có thể làm gì ? Sau thảm họa lũ lụt, việc duy trì sức khỏe cá nhân và tăng cường hệ miễn dịch là vô cùng quan trọng. Không chỉ cho cá nhân bạn mà cho cả việc hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn mọi người xung quanh. Sau đây là một số hướng dẫn giúp cá nhân luôn khỏe mạnh và phục hồi: Dinh dưỡng sạch và nước sạch Bổ sung dinh dưỡng đầy đủ: Ăn nhiều loại thực phẩm để đảm bảo bạn nhận được tất cả các chất dinh dưỡng thiết yếu. Tập trung vào trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, protein nạc và chất béo lành mạnh. Lưu ý nguồn thực phẩm rau xanh, thịt cá có thể bị lây nhiễm các yếu tố mầm bệnh nên cần thực hành “ăn chín, uống sôi”. Tham khảo thêm ở bên dưới. Nước: Uống nhiều nước sạch. Nếu nguồn cung cấp nước bị suy giảm, hãy sử dụng viên lọc nước hoặc đun sôi nước để đảm bảo nước an toàn để uống. Thực hành vệ sinh Rửa tay: Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước sạch, đặc biệt là trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Vệ sinh chung: Sử dụng các cơ sở vệ sinh phù hợp và xử lý chất thải đúng cách để ngăn ngừa ô nhiễm và lây lan bệnh tật. Sức khỏe thể chất Giữ sức khỏe thể chất: Tham gia các hoạt động cứu trợ, khắc phục hậu quả sẽ rất tốn sức và có thể gây mệt mỏi, quá tải. Bạn cần chú ý đến việc nghỉ ngơi hợp lý và bổ sung dinh dưỡng đầy đủ. Nghỉ ngơi: Đảm bảo bạn ngủ đủ giấc để giúp cơ thể phục hồi và duy trì hệ miễn dịch khỏe mạnh. Sức khỏe tâm thần Quản lý căng thẳng: Thực hành các kỹ thuật giảm căng thẳng như hít thở sâu, tập thể dục Giữ liên lạc với những người thân yêu cũng có thể mang lại sự hỗ trợ về mặt cảm xúc. Tìm kiếm sự trợ giúp: Nếu bạn cảm thấy quá tải, đừng ngần ngại tìm kiếm sự trợ giúp từ các chuyên gia sức khỏe tâm thần hoặc các nhóm hỗ trợ. Các biện pháp phòng ngừa Tiêm chủng: Cập nhật thông tin về các loại vắc-xin để bảo vệ chống lại các bệnh có thể phòng ngừa. Điều này đặc biệt quan trọng ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm họa, nơi có nhiều khả năng bùng phát dịch bệnh. Tránh các khu vực bị ô nhiễm: Tránh xa vùng nước lũ và các khu vực có nhiều mảnh vỡ để giảm nguy cơ nhiễm trùng và thương tích. Hỗ trợ cộng đồng Cập nhật thông tin: Theo dõi các khuyến cáo về sức khỏe tại địa phương và tuân thủ các hướng dẫn do cơ quan y tế ban hành. Tình nguyện: Nếu có thể, hãy tham gia vào các hoạt động dọn dẹp cộng đồng và hỗ trợ các nỗ lực giúp khôi phục trạng thái bình thường và giảm thiểu rủi ro sức khỏe. Bổ sung dinh dưỡng: Tăng cường sức khỏe miễn dịch trong và sau lũ lụt Sau thảm họa lũ lụt, việc duy trì hệ thống miễn dịch khỏe mạnh là vô cùng quan trọng. Nguy cơ dịch bệnh bùng phát có thể kéo dài cả sau nhiều tháng khi cơn bão lũ đã qua đi. Ngoài việc bổ sung đầy đủ protein, chất béo thiết yếu và nguồn tinh bột sạch tạo năng lượng cho hoạt động cứu trợ, khắc phục hậu quả, những chất dinh dưỡng giúp tăng cường hệ miễn dịch cũng cần được chú ý. Những chất dinh dưỡng chính bạn nên lưu ý như sau: Vitamin C: Được biết đến với đặc tính tăng cường miễn dịch, nó cũng giúp phục hồi các mô và hấp thụ sắt.Vitamin C có nhiều trong trái cây như Ổi, Nho, trái họ cam, bông cải xanh, khoai tây…Cần lưu ý rằng Vitamin C dễ bổ sung nhất từ rau quả nhưng nếu ăn nhiều quá có thể dẫn tới tiêu chảy. Vitamin D: Cần thiết cho sức khỏe xương và chức năng miễn dịch. Nó có thể đặc biệt quan trọng nếu bạn ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Vitamin D có nhiều trong cá biển, trứng (lòng đỏ), thịt đỏ, gan động vật và sữa tăng cường. Kẽm: Đóng vai trò quan trọng trong phản ứng miễn dịch và chữa lành vết thương. Kẽm có nhiều trong các loại thịt, hải sản, các loại đậu và quả hạch. Axit béo Omega-3: Giúp giảm viêm, tăng cường miễn dịch. Có nhiều trong các loại cá, cá biển, các loại hạt, trứng, dầu thực vật và sữa chưa tách béo. Một điều quan trọng bạn cần lưu ý là cân nhắc đến an toàn vệ sinh thực phẩm và cả nguy cơ chế biến thực phẩm trong vùng lũ. “Ăn chín uống sôi” rất tốt nhưng nó không hoàn toàn loại trừ hết nguy cơ mầm bệnh, virus, chất độc đã bị nhiễm vào nguồn nước. Nguồn nước sạch do vậy rất quan trọng, không chỉ để nấu thức ăn mà còn cả trong vấn đề vệ sinh thân thể để tránh các bệnh nhiễm qua da. Cuối cùng chúng ta cần luôn lưu ý rằng, nguy cơ dịch bệnh có thể kéo dài ngay cả sau khi tất cả các hậu quả về cơ sở hạ tầng đã được khắc phục. Cần luôn duy trì sức khỏe hệ miễn dịch, sức khỏe tổng thể và có ý thức phòng tránh các nguy cơ lây lan tốt nhất.
Dinh dưỡng cho trẻ em và thanh thiếu niên: Nền tảng cho huấn luyện thể chất tối ưu
Cơ thể con người thay đổi đáng kể theo thời gian và thức ăn chính là nhiên liệu cho những thay đổi đó. Những niềm tin và phong tục trong giai đoạn đầu đời được thực hiện với hy vọng xây dựng một nền tảng vững chắc và thiết lập sức khỏe suốt đời. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều cần những chất dinh dưỡng cơ bản giống nhau—axit amin thiết yếu, carbohydrate, axit béo thiết yếu, cùng 28 loại vitamin và khoáng chất—để duy trì sự sống và sức khỏe. Tuy nhiên, lượng chất dinh dưỡng cần thiết lại khác nhau. Trong suốt vòng đời của con người, cơ thể liên tục thay đổi và trải qua các giai đoạn khác nhau được gọi là các giai đoạn. Các giai đoạn chính của vòng đời con người được xác định như sau: Thai kỳ. Sự phát triển của hợp tử thành phôi và sau đó thành bào thai để chuẩn bị cho quá trình sinh nở. Trẻ sơ sinh. Phần đầu tiên của tuổi thơ. Đó là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến ngày sinh nhật đầu tiên. Thời thơ ấu và những năm chập chững biết đi. Xảy ra ở độ tuổi từ một đến ba Thời thiếu nhi. Giai đoạn từ trẻ em đến khi bắt đầu dậy thì (từ 4-10 tuổi). Có thể được gọi là thiếu nhi (bao gồm thiếu niên và nhi đồng). Bắt đầu tuổi dậy thì. Có thể xảy ra từ chín đến mười bốn tuổi, đó là thời điểm bắt đầu của tuổi thiếu niên. Tuổi vị thành niên. Giai đoạn diễn ra ở độ tuổi từ mười bốn đến mười tám. * Trưởng thành. Khoảng thời gian từ cuối tuổi thiếu niên đến cuối đời và bắt đầu từ tuổi mười tám ở Mỹ và mười chín tuổi ở một số nước khác. Trung niên. Khoảng thời gian trưởng thành kéo dài từ bốn mươi lăm tuổi đến sáu mươi tư tuổi. Cao tuổi, hoặc già. Kéo dài từ sáu mươi lăm tuổi cho đến hết cuộc đời. * Việc chia nhóm độ tuổi có sự khác biệt về ngôn ngữ và quan niệm ở mỗi nước, khu vực dễ gây nhầm lẫn. Theo quan niệm Việt Nam, 4-9 tuổi là nhi đồng, 10-15 tuổi là thiếu niên. Còn quy định pháp luật ở VN, dưới 16 tuổi được tính chung là trẻ em. Còn Liên Hiệp Quốc quy định người dưới 18 tuổi là chưa thành niên và sau 18 tuổi là thành niên. Phần kiến thức này chủ yếu đưa ra các định hướng căn bản trong việc tiếp cận dinh dưỡng dành cho đối tượng trẻ em đến thanh thiếu niên khỏe mạnh. Những đối tượng đặc biệt cần theo dõi, chăm sóc riêng cùng bác sĩ và chuyên gia nhi khoa. Một số thay đổi sinh lý và cảm xúc quan trọng diễn ra trong giai đoạn cuộc sống từ thời thơ ấu đến tuổi thiếu niên và vị thành niên. Thái độ và nhận thức của trẻ em về thực phẩm sẽ dần sâu sắc hơn. Chúng không chỉ bắt đầu tiếp thu các tín hiệu về sở thích thực phẩm từ các thành viên trong gia đình mà còn từ bạn bè và nền văn hóa rộng lớn hơn. Trong giai đoạn phát triển của trẻ nhỏ chúng ta có thể xây dựng những kết nối trẻ em với đất đai, nguồn nước và thực phẩm địa phương. Điều này có thể giúp giải quyết các vấn đề sức khỏe của trẻ em bằng cách nuôi dưỡng thói quen ăn uống lành mạnh bằng cách dạy và tạo sự thu hút với thiếu nhi về các loại thực phẩm địa phương và truyền thống. Cha mẹ cũng ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn dinh dưỡng của con mình. Thời gian này trong cuộc đời của trẻ tạo cơ hội cho cha mẹ và những người chăm sóc khác củng cố thói quen ăn uống tốt và đưa các loại thực phẩm mới vào chế độ ăn uống, đồng thời vẫn lưu tâm đến sở thích của trẻ. Hiện tại ở các thành phố lớn đã có trường dành cho trẻ em giai đoạn sau 3 tuổi nhưng tầm quan trọng của cha mẹ và người thân chăm sóc là không thể bỏ qua. Cha mẹ cũng nên đóng vai trò là hình mẫu cho con cái của mình, những đứa trẻ thường bắt chước hành vi và thói quen ăn uống của cha mẹ. Cha mẹ và người thân phải tiếp tục giúp con cái trong độ tuổi đi học và thanh thiếu niên để thiết lập thói quen ăn uống lành mạnh và thái độ đối với thực phẩm. Vai trò chính của họ là mang nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khỏe vào nhà, để con cái họ có thể đưa ra những lựa chọn tốt nhất. Về dinh dưỡng thai kỳ, xem thêm bài blog tại đây . Bài viết này sẽ tập trung vào dinh dưỡng từ giai đoạn sinh ra đến lúc trưởng thành. Trẻ sơ sinh Nếu trẻ sinh không biến chứng và trẻ tỉnh táo và khỏe mạnh, trẻ sơ sinh có thể được mang đến bên mẹ để cho bú ngay. Việc này cũng giúp trẻ quen với việc bú mẹ sau đó và kích thích tuyến sữa. Nôn ọe ra chất nhầy sau khi bú rất thường gặp (vì cơ trơn dạ dày & thực quản còn lỏng lẻo) nhưng sẽ giảm bớt trong vòng 48 giờ. Nếu trẻ ọc ra chất nhầy hoặc nôn kéo dài quá 48 giờ hoặc nếu nôn dịch mật, cần phải đánh giá đầy đủ về đường tiêu hóa và đường hô hấp trên để phát hiện bất thường tiêu hóa bẩm sinh. Nhu cầu nước và calo hàng ngày thay đổi theo độ tuổi. Như trẻ sơ sinh dưới 6 tháng là 110-120kcal/1kg trọng lượng cơ thể và trẻ 1 tuổi trở đi là 95-100kcal/kg cân nặng. Các nhu cầu tương đối về protein và năng lượng (g hoặc kcal/kg trọng lượng cơ thể) giảm dần từ cuối giai đoạn nhũ nhi cho đến tuổi thiếu niên (xem bảng Khuyến nghị về chế độ ăn uống tham khảo cho một số chất dinh dưỡng đa lượng, Ủy ban Thực phẩm và Dinh dưỡng, Viện Y học của Học viện Quốc gia), nhưng nhu cầu tuyệt đối tăng lên. Trẻ sơ sinh nên được cho ăn theo nhu cầu, thường là khoảng 8 đến 12 lần/ngày. Lượng ăn vào trung bình mỗi lần cho ăn trong vài ngày đầu có thể chỉ từ 15 đến 30 mL. Sau 48 giờ, các dấu hiệu cho thấy trẻ bú đủ bao gồm trẻ có vẻ hài lòng sau mỗi lần bú, có 6 đến 8 thay tã mỗi ngày và đại tiện đều đặn, ngủ ngon, tỉnh táo khi thức và tăng cân. Mặc dù có sự khác biệt nhỏ trong lượng thức ăn hàng ngày là thường gặp, và cha mẹ thường lo lắng quá mức, chỉ cần đảm bảo theo hướng dẫn trừ khi có dấu hiệu bệnh tật hoặc thay đổi về chỉ số tăng trưởng, đặc biệt là cân nặng. Cân nặng sau khi sinh ra của trẻ có thể giảm sút. Nhưng nếu mất trên 5 đến 7% trọng lượng khi sinh trong tuần đầu tiên cho thấy trẻ bị thiếu dinh dưỡng. Cần phải lấy lại cân nặng lúc sinh sau 2 tuần ở trẻ bú mẹ (sớm hơn ở trẻ bú sữa công thức), và dự kiến sẽ tăng khoảng 20 đến 30 g/ngày sau đó trong vài tháng đầu tiên. Trẻ nhũ nhi nên tăng gấp đôi cân nặng sau khi sinh khoảng sau 5 tháng. Trong 6 tháng đầu tiên, sữa mẹ có thể cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng. Chúng ta cũng có thể bổ sung cho trẻ bằng sữa công thức với các trường hợp thiếu hoặc không có sữa mẹ. Trong trường hợp người mẹ thiếu sữa, sữa của một người mẹ khác cũng là một lựa chọn tốt nhất. Các nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ mang những đặc tính thành phần chỉ có ở người mà không thể thay thế hay bắt chước hoàn hảo được. Sữa mẹ giúp xây dựng khả năng miễn dịch của trẻ, giúp ngăn ngừa hầu hết các bất thường có thể xảy ra trong tương lai như thiếu chất, dậy thì sớm…( Link ) Cũng lưu ý rằng các tuyên bố về tối ưu sức khỏe, lợi ích về phát triển từ sữa công thức có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ ( Link ) ( Link ). Cha mẹ nên cẩn trọng và có ý thức rằng, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhỏ nếu không muốn nói là không thể thay thế ( Link ). Thời thơ ấu Thời ấu thơ bao gồm thời kỳ sơ sinh, nhũ nhi (còn bú mẹ) và những năm chập chững biết đi, thường từ khi mới sinh đến ba tuổi. Từ 6-8 tháng tuổi, tiếp tục cho bé bú mẹ hoặc sữa thay thế từ 3-5 lần một ngày. Bé sẽ bắt đầu bú ít sữa mẹ hoặc sữa thay thế khi mà thức ăn đặc trở thành nguồn dinh dưỡng chính. Thời điểm này, bạn có thể bắt đầu cho trẻ ăn các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật khác: rau (khoai tây, đậu xanh, cà rốt và đậu Hà Lan) đều là những lựa chọn tốt, chúng nên được nấu chín kỹ và nghiền, trái cây (chẳng hạn như chuối nghiền, bơ, đào, hoặc táo). Từ 8-12 tháng tuổi, nên tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ hoặc sữa thay thế 3-4 lần/ ngày. Ở độ tuổi này, cần bổ sung thêm các loại thịt băm vào khẩu phần ăn của trẻ. Khi trẻ được 1 tuổi, nên tăng dần lượng thức ăn dặm, bé sẽ bú hoặc uống ít sữa hơn. Lúc này bé cần được cung cấp nhiều chất dinh dưỡng từ thịt, trái cây, rau, bánh mì và hạt ngũ cốc và nhóm sữa, đặt biệt sữa nguyên kem. Việc này sẽ giúp đảm bảo đầy đủ lượng vitamin và khoáng chất cho trẻ. Tuy nhiên, sữa mẹ hoặc sữa công thức vẫn là nguồn dinh dưỡng chính cho bé trong suốt năm đầu đời, do đó ở thời điểm này, sữa vẫn nên chiếm khoảng 70% khẩu phần ăn. Cần lưu ý rằng trong thời gian này trẻ bắt đầu học cách bò và đi nên sẽ ăn ít thức ăn trong 1 bữa ăn, nhưng sẽ ăn thường xuyên hơn (4-6 lần) trong cả ngày, vì vậy, bố mẹ nên thêm những cử ăn nhẹ ngoài khẩu phần cho trẻ. Sau 24 tháng, hầu hết các bé đã mọc đủ răng và cứng chắc hơn giai đoạn 1 tuổi. Lúc này bé không còn ăn cháo, bột nữa mà có thể ăn những thức ăn giống người lớn, bố mẹ nên cho trẻ ăn cơm cùng gia đình để tạo thói quen tốt trong ăn uống, các món ăn dành cho bé có thể là cháo đặc, súp đặc, cơm,..., đồng thời vẫn cho trẻ uống sữa ít nhất 1 lần/ngày. Bên cạnh 3 bữa ăn chính cùng gia đình, bạn có thể cho trẻ ăn thêm 2 bữa phụ vào giữa buổi sáng và giữa buổi chiều, bữa phụ giúp trẻ không bị đói, ăn uống ngon miệng hơn, trong bữa phụ này, bạn nên cho trẻ ăn các loại trái cây, sữa, sữa chua để hỗ trợ hệ tiêu hóa. Nhu cầu dinh dưỡng thay đổi khi trẻ rời khỏi giai đoạn chập chững biết đi. Từ 03 đến 06 tuổi, trẻ em đến độ tuổi đi học phát triển đều đặn, nhưng sẽ chậm hơn so thời kỳ sơ sinh và mới biết đi. Trẻ cũng trải qua quá trình rụng răng sữa và mọc răng vĩnh viễn, thường bắt đầu từ sáu hoặc bảy tuổi. Khi răng mới mọc, nhiều trẻ bị lệch khớp cắn hoặc răng mọc lệch, có thể ảnh hưởng đến khả năng nhai thức ăn. Những thay đổi khác ảnh hưởng đến dinh dưỡng bao gồm ảnh hưởng của bạn bè đến lựa chọn chế độ ăn uống và các loại thực phẩm do trường học và các chương trình sau giờ học cung cấp, có thể chiếm một phần đáng kể trong chế độ ăn của trẻ. Các vấn đề liên quan đến thực phẩm đối với trẻ nhỏ có thể bao gồm sâu răng, nhạy cảm với thực phẩm và suy dinh dưỡng. Ngoài ra, tăng cân quá mức khi còn nhỏ có thể dẫn đến béo phì khi đến tuổi thiếu niên và trưởng thành. Ở giai đoạn này của cuộc đời, chế độ ăn uống lành mạnh thúc đẩy sự phát triển về thể chất và tinh thần, đồng thời giúp duy trì sức khỏe và thể chất. Trẻ em trong độ tuổi đi học có sự tăng trưởng đều đặn, nhất quán, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 5–7 cm chiều cao và 2–3 kg cân nặng mỗi năm. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của các chi nhanh hơn so với thân, dẫn đến tỷ lệ giống người lớn hơn. Sự phát triển của xương dài kéo căng các cơ và dây chằng, dẫn đến nhiều trẻ em bị "đau do lớn" dẫn đến khó chịu, đặc biệt là vào ban đêm. Nhu cầu năng lượng của trẻ em thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển và mức độ hoạt động thể chất của trẻ. Nhu cầu năng lượng cũng thay đổi tùy theo giới tính. Bé trai thường cần lượng calories nhiều hơn bé gái. Ngoài ra, lượng khuyến nghị về các chất dinh dưỡng đa lượng và hầu hết các chất dinh dưỡng vi lượng đều cao hơn so với kích thước cơ thể, so với nhu cầu dinh dưỡng ở tuổi trưởng thành. Do đó, trẻ em nên được cung cấp thực phẩm giàu dinh dưỡng vào bữa ăn chính và bữa ăn nhẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là không nên cho trẻ ăn quá nhiều, vì điều này có thể dẫn đến tình trạng béo phì ở trẻ em. Theo điều tra dân số của Bộ Y Tế năm 2020, 19% trẻ em thành thị tại VN đang ở trong tình trạng thừa cân béo phì. ( Link )Trong đó, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn). Đặc biệt tại TPHCM, tỉ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở học sinh tiểu học lên tới 56,9%. ( Link ) Chất dinh dưỡng đa lượng Đối với carbohydrate, phạm vi phân phối chấp nhận được (AMDR) là 40–60 phần trăm lượng calo hàng ngày. Carbohydrate giàu chất xơ nên chiếm phần lớn lượng hấp thụ. AMDR đối với protein là 10–30 phần trăm lượng calo hàng ngày (30–90 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Trẻ em sau giai đoạn cai sữa nên nhận được chất xơ từ các loại thực vật, ngũ cốc. Trẻ em có nhu cầu cao về protein để hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cơ bắp. Hàm lượng protein tối thiểu là 1,7 g/100 kcal và hàm lượng protein tối đa là 3,4g/100 kcal trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) Cần có mức axit béo thiết yếu cao để hỗ trợ tăng trưởng (mặc dù không cao như ở trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi). Do đó, AMDR đối với chất béo là 25–35 phần trăm lượng calo hàng ngày (33–47 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Hàm lượng chất béo tối thiểu là 4,4 g/100 kcal (40% tổng năng lượng) và hàm lượng chất béo tối đa là 6,4 g/100 kcal (57,2% tổng năng lượng) trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) ( Link ) Vi chất dinh dưỡng Nhu cầu vi chất dinh dưỡng cần được đáp ứng trước tiên bằng thực phẩm. Cha mẹ và người chăm sóc nên lựa chọn nhiều loại thực phẩm từ mỗi nhóm thực phẩm để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng. Vì trẻ em lớn nhanh nên cần những thực phẩm giàu chất sắt, chẳng hạn như thịt nạc, đậu, cá, gia cầm và ngũ cốc giàu sắt. Fluoride đầy đủ rất quan trọng để hỗ trợ răng chắc khỏe. Một trong những nhu cầu vi chất dinh dưỡng quan trọng nhất trong thời thơ ấu là lượng canxi và vitamin D đầy đủ. Cả hai đều cần thiết để xây dựng xương chắc khỏe. Trẻ em không tiêu thụ đủ vitamin D nên được bổ sung 10 microgam (400 IU) mỗi ngày. Vitamin D có nhiều trong các loại nấm (trồng ngoài trời), dầu gan cá, cá biển, lòng đỏ trứng và các thực phẩm tăng cường. Các loại sữa công thức, sữa bò chính là nguồn thực phẩm bổ sung canxi tốt cho trẻ. Lưu ý cần tránh dùng các loại có đường bổ sung. Các khuyến nghị là giống nhau đối với bé trai và bé gái. Khi chúng ta tiến triển qua các giai đoạn khác nhau của vòng đời con người, sẽ có một số khác biệt giữa nam và nữ về nhu cầu vi chất dinh dưỡng. Tham khảo hướng dẫn nuôi dưỡng trẻ em sơ sinh, trẻ mầm non theo khuyến nghị của Viện Dinh Dưỡng, Bộ Y Tế năm 2016 tại đây và tại đây . Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn thức ăn của trẻ Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến thói quen ăn uống và thái độ của trẻ đối với thực phẩm. Môi trường gia đình, xu hướng xã hội, sở thích về khẩu vị và thông điệp hình ảnh trên các phương tiện truyền thông đều tác động đến cảm xúc mà trẻ phát triển liên quan đến chế độ ăn uống của mình. Quảng cáo trên truyền hình có thể dụ dỗ trẻ tiêu thụ các sản phẩm có đường, thức ăn nhanh nhiều chất béo, dư thừa calo, chất béo công nghiệp và nhiều thành phần tinh chế. Việc tiêu thụ các sản phẩm này có thể gây ra tình trạng thiếu chất dinh dưỡng và cả thừa chất dinh dưỡng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ em. Các nghiên cứu đã cho thấy những mối quan ngại với tình trạng này tại các nước có thu nhập thấp và trung bình ( Link ). Bên cạnh đó chúng có thể hình thành những thói quen dinh dưỡng không tốt sau này do ký ức về đồ ăn của trẻ. Do đó, điều quan trọng là cha mẹ và người chăm sóc phải hướng trẻ đến những lựa chọn lành mạnh. Một cách để khuyến khích trẻ ăn thực phẩm lành mạnh là làm cho không khí bữa ăn trở nên vui vẻ và thú vị. Cha mẹ nên cho trẻ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực phẩm, ví dụ như chọn các mặt hàng khi đi mua sắm hoặc giúp chuẩn bị một phần bữa ăn, chẳng hạn như làm salad. Vào thời điểm này, cha mẹ cũng có thể giáo dục trẻ về an toàn trong bếp. Cha mẹ nên cung cấp các món tráng miệng bổ dưỡng, chẳng hạn như trái cây tươi, thay vì bánh ngọt, đồ ăn nhanh và kem chứa nhiều calo. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy trẻ em ăn cơm cùng gia đình thường xuyên sẽ tiêu thụ nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn. Trẻ em thường dễ chán với những món ăn lặp lại, kể cả việc chế biến hay màu sắc trình bày và chúng cũng thường khó ăn rau xanh, củ quả do trẻ rất nhạy về vị giác. Cách khắc phục là thay đổi món, cách chế biến, cách sắp xếp, trình bày, (như cắt rau củ thành ngôi sao, dùng xiên thịt băm…). Rau củ quả có thể được nghiền ép thành nước ép, sinh tố pha thêm mật ong để nhiều màu sắc và hấp dẫn về mùi vị sẽ thu hút trẻ hơn. Thói quen cho trẻ sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại/ipad để dỗ trẻ ăn có thể tạo ra những hệ lụy không tốt cho não bộ của trẻ. Ngoài ra, việc sử dụng màn hình quá mức có tác động bất lợi đến sự phát triển về mặt xã hội và cảm xúc, bao gồm tăng khả năng béo phì, rối loạn giấc ngủ và các tình trạng sức khỏe tâm thần bao gồm trầm cảm và lo âu. Nó có thể cản trở khả năng diễn giải cảm xúc, thúc đẩy hành vi hung hăng và gây hại cho sức khỏe tâm lý nói chung. ( Link ) Cha mẹ và người thân chăm sóc có thể thay thế hành vi này bằng các hoạt động vui chơi tương tác hoặc đi dạo ngoài trời. Cũng không nên “cưỡng ép” bắt trẻ ăn theo kiểu nhồi nhét cho đủ và cho đúng giờ khi trẻ kháng cự hoặc không muốn ăn. Chăm sóc trẻ em đòi hỏi tìm hiểu về tâm lý và tập tính của trẻ để từ đó xây dựng lên những thói quen tốt và tự động. Trẻ em và suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng là vấn đề mà nhiều trẻ em phải đối mặt, không chỉ ở các quốc gia nghèo mà còn cả các quốc gia đang phát triển và phát triển. Ngay cả với sự giàu có về lương thực ở Bắc Mỹ, nhiều trẻ em vẫn lớn lên trong tình trạng suy dinh dưỡng hoặc thậm chí là đói. Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ phân loại các hộ gia đình thành các nhóm sau: Đảm bảo an ninh lương thực Thiếu an ninh lương thực nhưng không đói Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói vừa phải Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói nghiêm trọng Tại Hoa Kỳ, khoảng 20 phần trăm hộ gia đình có trẻ em không đảm bảo về lương thực ở một mức độ nào đó. Điều này có nghĩa là trẻ em đôi khi không được tiếp cận với các bữa ăn đầy đủ và bổ dưỡng. Lớn lên trong một hộ gia đình không đảm bảo an ninh lương thực có thể dẫn đến một số vấn đề. Thiếu sắt, kẽm, protein và vitamin A có thể dẫn đến còi cọc, bệnh tật và hạn chế phát triển. Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng cho thấy, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) đang giảm dần, từ 29,3% năm 2010 giảm xuống dưới 18,9% vào năm 2022. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%. ( Link ) Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi chênh lệch mạnh giữa các vùng miền. Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ dưới 5 tuổi vùng miền núi phía Bắc là cao nhất (37,4%), sau đó là Tây nguyên (28,8%). Tỷ lệ thể thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số (31,4%) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người Kinh (15,0%). Tỷ lệ trẻ em là người dân tộc thiểu số nhẹ cân cũng lớn hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ em là người Kinh. Trong trường hợp thiếu an ninh lương thực, việc cung cấp đầy đủ lượng calories hàng ngày nên được chú trọng ưu tiên hàng đầu. Đi kèm với nó là cung cấp đủ thịt cá trứng để hỗ trợ quá trình lớn và phát triển đầy đủ của trẻ. Dị ứng thực phẩm và không dung nạp thực phẩm Sự phát triển của dị ứng thực phẩm là mối quan tâm trong những năm tháng chập chững biết đi. Đây vẫn là vấn đề đối với trẻ em trong độ tuổi đi học. Một số loại thực phẩm gây dị ứng phổ biến nhất bao gồm đậu phộng, sữa bò tươi, đậu nành, lúa mì và động vật có vỏ (nghêu sò ốc hến hải sản tôm cua). Dị ứng xảy ra khi một loại protein trong thực phẩm kích hoạt phản ứng miễn dịch, dẫn đến giải phóng kháng thể, histamine và các chất bảo vệ khác tấn công các vật thể lạ. Các triệu chứng có thể bao gồm ngứa da, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy và buồn nôn. Các triệu chứng thường phát triển trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi tiêu thụ chất gây dị ứng thực phẩm. Trẻ em có thể vượt qua dị ứng thực phẩm, đặc biệt là dị ứng với lúa mì, sữa, trứng hoặc đậu nành. Phản vệ là phản ứng đe dọa tính mạng dẫn đến khó thở, sưng miệng và cổ họng, giảm huyết áp, sốc hoặc thậm chí tử vong. Sữa bò tươi, lúa mì, đậu nành, cá, động vật có vỏ, đậu phộng và các loại hạt cây là những loại có khả năng gây ra loại phản ứng này nhiều nhất. Một liều thuốc Epinephrine thường được tiêm qua “bút” để điều trị cho người bị sốc phản vệ. Một số trẻ em bị chứng không dung nạp thức ăn, không liên quan đến phản ứng miễn dịch. Chứng không dung nạp thức ăn được biểu hiện bằng các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi tiêu thụ một số loại thực phẩm nhất định. Chứng không dung nạp lactose, mặc dù hiếm gặp ở trẻ rất nhỏ, là một ví dụ. Trẻ em mắc chứng bệnh này sẽ có phản ứng bất lợi với lactose trong các sản phẩm từ sữa. Đây là kết quả của tình trạng ruột non không sản xuất đủ enzyme lactase. Các triệu chứng của chứng không dung nạp lactose thường ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và có thể bao gồm đầy hơi, đau bụng, đầy hơi, buồn nôn và tiêu chảy. Chứng không dung nạp lactose được kiểm soát tốt nhất bằng cách thay đổi chế độ ăn uống và tránh bất kỳ loại thực phẩm nào gây ra phản ứng. Adolescence/Vị thành niên Sự khởi đầu của tuổi dậy thì là sự khởi đầu của tuổi vị thành niên và là cầu nối giữa những năm thơ ấu và tuổi trưởng thành. Theo khuyến nghị của DRI, tuổi vị thành niên được chia thành hai nhóm tuổi: 9 đến 13 tuổi và 14 đến 18 tuổi. Một số thay đổi sinh lý quan trọng diễn ra trong giai đoạn này bao gồm sự phát triển của các đặc điểm giới tính chính: các cơ quan sinh sản, cùng với sự khởi đầu của kinh nguyệt ở phụ nữ. Giai đoạn cuộc đời này cũng được đặc trưng bởi sự xuất hiện của các đặc điểm giới tính thứ cấp, chẳng hạn như sự phát triển của lông mặt và cơ thể, sự phát triển của ngực ở trẻ em gái và giọng nói trầm hơn ở trẻ em trai. Những thay đổi thể chất khác bao gồm sự phát triển nhanh chóng và những thay đổi về tỷ lệ cơ thể. Tất cả những thay đổi này, cũng như những điều chỉnh về tinh thần và cảm xúc đi kèm, cần được hỗ trợ bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý. Bắt đầu tuổi dậy thì Tuy không có một khẳng định nhất quán, dậy thì thường bắt đầu ở 9 tuổi và bé gái thường dậy thì sớm hơn so với bé trai. Giai đoạn phát triển thể chất này được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên liên quan đến việc tăng chiều cao từ 20 đến 25 phần trăm. Về mặt tăng trưởng nhanh, tuổi dậy thì xếp thứ hai sau giai đoạn trước khi sinh khi các xương dài của chúng ta phát triển đến kích thước cuối cùng của người trưởng thành. Bé gái sẽ cao hơn từ 5–20 cm, trong khi bé trai cao hơn 10–30 cm. Giai đoạn thứ hai liên quan đến việc tăng thể khối cơ thể, liên quan đến sự phát triển của xương, cơ và mô mỡ. Cũng trong giai đoạn dậy thì, hormone sinh dục kích hoạt sự phát triển của các cơ quan sinh sản và các đặc điểm sinh dục thứ cấp, chẳng hạn như lông mu. Bé gái cũng phát triển những "đường cong", trong khi bé trai trở nên cao lớn hơn và cơ bắp hơn. Dậy thì sớm Dậy thì sớm là tình trạng phát triển các đặc điểm giới tính thứ phát (như có lông mu, kinh nguyệt sớm) trước 8 tuổi ở bé gái và 9 tuổi ở bé trai. Tình trạng này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, cả về thể chất lẫn tâm lý, tinh thần. Trẻ sẽ không đạt được chiều cao, độ lớn cơ thể và sự phát triển toàn diện. ( Link ) Dữ liệu nghiên cứu trong về tình trạng này cho thấy mức độ gặp phải ở trẻ khoảng 1:5000 bé nữ và 1:10000 bé trai. Hiện nay, tình trạng dậy thì sớm đang trở thành một mối lưu tâm.
Xem Porn là loại ma túy mới ? Những con số trần trụi
Xem thêm: Nghiện xem Porn có phải một bệnh ? Cách điều trị ? Kể từ khi thành lập vào năm 2015, Đường dây trợ giúp khiêu dâm trả thù bằng khiêu dâm (Revenge Porn Helpline) đã nhận được hơn 338.000 báo cáo về lạm dụng tình dục dựa trên hình ảnh. Chỉ riêng trong năm 2023, số lượng báo cáo mà Đường dây trợ giúp nhận được đã tăng 106%. ( Báo cáo Đường dây trợ giúp khiêu dâm trả thù năm 2023 ) Trong số những người cho biết họ đã xem nội dung khiêu dâm, trẻ em trong nhóm tuổi nhỏ nhất (11 đến 13) có nhiều khả năng nói rằng việc xem nội dung này của họ chủ yếu hoặc hoàn toàn là vô ý (62% so với 46% ở trẻ em từ 16 đến 17 tuổi). 50% trẻ em từ 11 đến 13 tuổi, 65% trẻ em từ 14 đến 15 tuổi và 78% trẻ em từ 16 đến 17 tuổi cho biết đã từng xem nội dung khiêu dâm theo một cách nào đó (do người khác cho xem/gửi, tìm kiếm/tình cờ thấy) Có sự khác biệt giữa nhận thức của cha mẹ về hành vi xem nội dung khiêu dâm của con mình và thực tế: 75% cha mẹ cảm thấy con mình sẽ không xem nội dung khiêu dâm trực tuyến, nhưng trong số những đứa trẻ đó, 53% cho biết thực tế chúng đã từng xem nội dung khiêu dâm Trong số những đứa trẻ thừa nhận cố ý tìm kiếm nội dung khiêu dâm (n = 276), gần hai phần ba trong số chúng (63%) cho biết chúng đã làm như vậy tại một thời điểm nào đó cụ thể vì một hoặc nhiều trong bốn lý do sau: (1) Ý tưởng về những điều mới mẻ để thử về mặt tình dục (2) Tìm hiểu về tình dục nói chung (3) Tìm hiểu cách để quan hệ tình dục tốt hơn (4) Tìm hiểu những gì mọi người mong đợi ở tôi về mặt tình dục Đặc biệt, các bé gái đã đề cập đến việc sử dụng nội dung khiêu dâm để học cách đáp ứng “kỳ vọng” của các bé trai. Nhìn chung, 41% trẻ em biết đến phim khiêu dâm đồng ý rằng “xem phim khiêu dâm khiến mọi người ít tôn trọng người khác giới hơn”. Với 63% trẻ em từ 11 đến 13 tuổi đã xem phim khiêu dâm cho biết lần đầu tiên chúng xem là vô tình, việc xác minh độ tuổi có thể có tác động đáng kể ở đây. 83% phụ huynh đồng ý với tuyên bố “cần có các biện pháp kiểm soát xác minh độ tuổi chặt chẽ để ngăn trẻ em (dưới 18 tuổi) xem phim khiêu dâm thương mại trực tuyến” Nguồn: Báo cáo về Con người, Nội dung khiêu dâm và Xác minh độ tuổi (bbfc, tháng 1 năm 2020) Một nghiên cứu phân tích các video từ Pornhub và Xvideos cho thấy 97 phần trăm mục tiêu của bạo lực và/hoặc xâm lược là phụ nữ. (Lưu trữ về Hành vi tình dục, Phân tích mô tả về các loại, mục tiêu và tần suất tương đối của hành vi xâm lược trong nội dung khiêu dâm chính thống ngày 13 tháng 7 năm 2020. ( Link )) Video khiêu dâm trực tuyến chiếm 27% video trực tuyến, 16% tổng lưu lượng dữ liệu và 5% tổng lượng khí thải nhà kính do công nghệ kỹ thuật số. ( Link ) Theo một cuộc khảo sát của công ty nghiên cứu Savanta ComRes năm ngoái, 38% phụ nữ dưới 40 tuổi đã từng bị tát, bóp cổ, bịt miệng hoặc khạc nhổ không mong muốn trong khi quan hệ tình dục đồng thuận. Nội dung khiêu dâm Deepfake chiếm phần lớn (96%) video deepfake trực tuyến, ngay cả khi các hình thức deepfake không khiêu dâm khác đã trở nên phổ biến. ( Link ). Tổng lượt truy cập vào Pornhub đạt 33,5 tỷ trong suốt năm 2018, tăng 5 tỷ lượt truy cập so với năm 2017. Con số này tương đương với trung bình 92 triệu lượt truy cập mỗi ngày và đến tháng 1 năm 2024, lượt truy cập trong tháng của Pornhub hiện đã vượt quá 3,5 tỷ chỉ tại Mỹ. Xếp sau là Indonesia với 765tr lượt truy cập, Brazil là hơn 500tr lượt và Pháp khoảng 470tr lượt. ( Link ) Theo thông tin công bố trực tiếp trên Pornhub (phần Insight), họ có 30,3 tỷ lượt tìm kiếm hàng ngày, hay 962 lượt tìm kiếm mỗi giây. Mỗi phút, có 63.992 lượt truy cập mới đến Pornhub,12 video mới và 2 giờ nội dung được tải lên Pornhub. Không chỉ tìm kiếm phim khiêu dâm 'ngoài trời' tăng trong suốt năm 2018 mà các nhà thống kê của chúng tôi cũng lưu ý rằng số lượng video tải lên được gắn thẻ là được quay ngoài trời gần như tăng gấp ba lần. Độ tuổi trung bình của người dùng Pornhub trên toàn thế giới hiện là 35,5 tuổi. Cộng lại, thế hệ thiên niên kỷ từ 18 đến 34 tuổi vẫn chiếm 61% lưu lượng truy cập của Pornhub. 80% lượt truy cập Pornhub trên toàn thế giới hiện đến từ điện thoại thông minh và máy tính bảng. Trong số các máy tính để bàn, trình duyệt Chrome vẫn giữ vị trí thống trị với 57,3% tổng số lượt truy cập, tăng 8% thị phần trong năm 2018. Trên các thiết bị di động, trình duyệt Chrome đã tăng nhẹ lên 41,1%, phá vỡ kỷ lục trước đó với Safari vào năm 2017. (Nguồn: Pornhub công bố 2019) Nghiên cứu do Hội đồng phân loại phim Anh (BBFC) ủy quyền cho thấy trẻ em và thanh thiếu niên xem và tình cờ xem nội dung khiêu dâm từ khi còn nhỏ - trong một số trường hợp chỉ mới bảy hoặc tám tuổi. ( BBFC , ngày 26 tháng 9 năm 2019) Theo các cơ quan chức năng của Anh tham gia thực hiện luật xác minh độ tuổi mới, có ít nhất 4,5 triệu trang web khiêu dâm, trong đó hơn một nửa nằm ở Hoa Kỳ. Một trong sáu trong số hơn 15000 người được hỏi trên toàn cầu đã xem nội dung khiêu dâm trên mạng công cộng, trong số những thứ khác. ( Neowin , tháng 7 năm 2018) Mô hình: Xác minh độ tuổi. Năm 2017, Quốc hội Anh đã ra lệnh xác minh độ tuổi để truy cập vào các trang web khiêu dâm. Nếu các trang web không tuân thủ, họ có thể bị phạt, bị từ chối quyền truy cập vào các dịch vụ phụ trợ hoặc bị chặn. Đã đến lúc Quốc hội phải hành động. Một nhà nghiên cứu gọi việc trẻ em truy cập không giới hạn vào nội dung khiêu dâm cực đoan và đồ họa trên internet là "thí nghiệm xã hội không được quản lý lớn nhất trong lịch sử". Xã hội chúng ta đang phải trả giá đắt cho điều đó. Một cuộc khảo sát toàn cầu năm 2017 của Norton do Symantec thực hiện cho thấy cứ sáu người thì có một người thừa nhận đã sử dụng Wi-Fi công cộng để xem nội dung dành cho người lớn. Trong số những người thừa nhận, họ đã làm như vậy ở những địa điểm sau: - Khách sạn/Airbnb (40 phần trăm) - Quán cà phê/Nhà hàng (30 phần trăm) - Công sở (29 phần trăm) - Sân bay (25 phần trăm) - Trên phố (24 phần trăm) - Ga tàu/xe buýt (18 phần trăm) - Nhà vệ sinh/nhà vệ sinh công cộng (16 phần trăm) Nội dung khiêu dâm đã thay đổi. Nội dung cực đoan là chuẩn mực mới. Nội dung khiêu dâm nhẹ nhàng đã biến mất. Năm 2010, tạp chí Violence Against Women đã báo cáo về hành vi xâm hại thể xác trong 88,2% các cảnh khiêu dâm chính và hành vi xâm hại bằng lời nói trong 48,7% với 94,4% hành vi xâm hại nhắm vào phụ nữ và trẻ em gái. Một tiêu đề trên Tạp chí Esquire vào tháng 2 năm 2018 có nội dung: "Loạn luân là xu hướng phát triển nhanh nhất trong phim khiêu dâm". Các nghiên cứu trong các bài báo đều cho thấy những thực tế đen tối. ( Link ) ( Link ) Người tiêu dùng có thể tự nhủ rằng họ không bị ảnh hưởng cá nhân bởi nội dung khiêu dâm, rằng họ sẽ không bị lừa tin vào những thông điệp ẩn chứa trong đó, nhưng các nghiên cứu lại cho thấy điều ngược lại. Có bằng chứng rõ ràng cho thấy nội dung khiêu dâm khiến nhiều người tiêu dùng có nhiều khả năng ủng hộ bạo lực đối với phụ nữ, tin rằng phụ nữ thích bị cưỡng hiếp và thực sự có hành vi hung hăng về mặt tình dục trong cuộc sống thực. ( Link ) Một cuộc khảo sát 313 sinh viên đại học cho thấy việc tiếp xúc với tạp chí dành cho nam giới có liên quan đáng kể đến ý định tìm kiếm sự đồng thuận tình dục thấp hơn và ý định tuân thủ các quyết định về sự đồng thuận tình dục thấp hơn. Thiết lập và tuân thủ sự đồng thuận tình dục: Mối liên hệ giữa việc đọc tạp chí và đàm phán sự đồng thuận tình dục của sinh viên đại học”, Tạp chí nghiên cứu tình dục 51, số 3 (2014): 280–290. ( Link ) ( Link ) Những người không bao giờ xem tài liệu khiêu dâm cho biết chất lượng mối quan hệ cao hơn và tỷ lệ ngoại tình thấp hơn những người xem. Nội dung khiêu dâm thường được trích dẫn là 'lời giải thích' cho quan hệ tình dục qua đường hậu môn và rằng 'mọi người phải thích nếu họ làm điều đó', trái ngược với kỳ vọng rằng nó sẽ gây đau đớn cho phụ nữ. Đàn ông cũng được kỳ vọng sẽ thuyết phục hoặc ép buộc những đối tác miễn cưỡng, điều này đã trở nên bình thường cũng như việc thâm nhập 'vô tình'. ( Link ) Một người đàn ông xem càng nhiều nội dung khiêu dâm, anh ta càng cần phải gợi lên hình ảnh khiêu dâm để duy trì sự hưng phấn và sẽ có nhiều khả năng yêu cầu các hành vi tình dục cụ thể với bạn tình của mình và lo lắng về khả năng tình dục và hình ảnh cơ thể của anh ta. ( Link ) Những người thường xuyên xem phim khiêu dâm trên Internet ít có khả năng kết hôn vì họ coi phim khiêu dâm là sự thay thế cho sự thỏa mãn tình dục trong hôn nhân. ( Link ) Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là một trong những lý do thường được trích dẫn nhất dẫn đến ly hôn và việc sử dụng phim khiêu dâm có mối tương quan với thái độ tích cực đối với các mối quan hệ ngoài hôn nhân. ( Link ) 17% phụ nữ mô tả bản thân họ nghiện nội dung khiêu dâm. ( Link ) Phân tích Xu hướng của Google cho thấy các tìm kiếm về “Nội dung khiêu dâm dành cho thanh thiếu niên” đã tăng gấp ba lần trong giai đoạn 2005–2013. Tổng số lượt tìm kiếm về phim khiêu dâm liên quan đến thanh thiếu niên ước tính đạt 500.000 lượt mỗi ngày vào tháng 3 năm 2013 — một phần ba tổng số lượt tìm kiếm hàng ngày về các trang web khiêu dâm. ( Link ) 30% ngành công nghiệp Internet là khiêu dâm. 35% Tài liệu download từ Internet liên quan đến khiêu dâm. Ngành công nghiệp khiêu dâm trực tuyến kiếm được hơn 3.000 đô la mỗi giây. ( Link ) Dự kiến khiêu dâm di động sẽ đạt 2,8 tỷ đô la vào năm 2015. 9/10 bé trai tiếp xúc với Porn khi chưa đủ 18 tuổi ( Link ) Hoa Kỳ là quốc gia sản xuất và xuất khẩu đĩa DVD khiêu dâm và tài liệu web lớn nhất, tiếp theo là Đức. ( Link ) Một phân tích của Google Trends chỉ ra rằng các tìm kiếm về "Phim khiêu dâm dành cho thanh thiếu niên" đã tăng gấp ba lần trong giai đoạn 2005-2013. Tổng số tìm kiếm về phim khiêu dâm liên quan đến thanh thiếu niên ước tính đạt 500.000 lượt mỗi ngày vào tháng 3 năm 201—một phần ba tổng số tìm kiếm hàng ngày về các trang web khiêu dâm. Một phân tích nội dung gần đây về 50 video dành cho người lớn bán chạy nhất đã tiết lộ rằng trong tất cả các cảnh: 3.376 hành vi hung hăng bằng lời nói và/hoặc hành động đã được quan sát thấy. Trung bình, các cảnh có 11,52 hành vi xâm lược bằng lời nói hoặc hành vi xâm lược bằng thể xác, dao động từ không có đến 128. 48 phần trăm trong số 304 cảnh được phân tích có hành vi xâm lược bằng lời nói, trong khi hơn 88 phần trăm cho thấy hành vi xâm lược bằng thể xác. 72 phần trăm hành vi xâm lược do nam giới thực hiện. 88,2% cảnh khiêu dâm được đánh giá cao nhất có hành vi xâm lược bằng thể xác (đánh đòn, bịt miệng, tát, v.v.); 48,7% có hành vi xâm lược bằng lời nói (gọi tên). Thủ phạm thường là nam giới, 94 phần trăm hành vi xâm lược được thực hiện đối với phụ nữ. (Bridges, A., Wosnitzer) Hàng trăm nghiên cứu cho thấy, những người đàn ông xem nội dung khiêu dâm có nhiều khả năng thể hiện ý định cưỡng hiếp tăng lên và có nhiều khả năng tin vào những lời đồn thổi về hiếp dâm, xâm phạm tình dục, xâm hại tình dục và cưỡng ép tình dục. Dù không thể thành lập quan hệ nhân quả trên diện rộng ( Link ) ( Link ) ( Link ). Cũng đừng quên rằng, ngành công nghiệp khiêu dâm hàng nghìn tỷ đô luôn có thể thực hành chiến dịch "lobby" để bảo vệ "nồi cơm" của mình.
Rượu bia và ảnh hưởng tới cơ bắp: Khác biệt nam và nữ
Tiêu thụ rượu bia là một hoạt động xã hội phổ biến được xếp vào nhóm tiêu thụ cho mục đích giải trí (Recreational Use) trong khoa học về dinh dưỡng và huấn luyện dinh dưỡng. Nhưng tác động của việc này đối với phì đại cơ bắp và quá trình rèn luyện sức mạnh thường bị bỏ qua hoặc hiểu biết một cách sơ sài. Việc hiểu được cách thức uống có cồn tương tác với các quá trình xây dựng cơ bắp của cơ thể rất quan trọng với bất kỳ ai nghiêm túc trong việc rèn luyện thể chất, fitness, dù là nam hay nữ. Nhất là khi chúng ta luôn có những hoạt động xã hội với sự có mặt của rượu bia và tận hưởng những bữa tiệc “hết mình”. Bài viết này đi sâu vào khoa học đằng sau tác động của rượu đối với sự phát triển cơ bắp và quá trình rèn luyện sức mạnh, cung cấp những hiểu biết sâu sắc cho cả nam và nữ. Khoa học về phì đại cơ bắp Phì đại cơ bắp chỉ sự gia tăng kích thước cơ bắp đạt được thông qua tập thể dục, đặc biệt là tập luyện sức mạnh kháng lực, hay còn gọi “tập gym”. Quá trình này liên quan đến các sợi cơ bị tổn thương vi mô trong quá trình tập luyện, cơ thể sẽ sửa chữa và xây dựng lại để chúng khỏe hơn và lớn hơn. Các yếu tố cơ chế chính trong phì đại cơ bắp bao gồm: Căng thẳng cơ học (Mechanical Tension): Lực tác động lên cơ trong quá trình tập luyện, tăng dần lên theo thời gian. Dù là chỉ với trọng lượng tạ nhỏ nhất hoặc chỉ đơn giản nâng cánh tay lên, bạn cũng không thể làm điều này mãi mãi. Nghe rất buồn cười nhưng bạn muốn nâng vật nặng thì bạn phải dạy cơ bắp phải tăng trưởng để làm việc đó bằng cách nâng vật nặng. Đây cũng là cơ chế chủ đạo cho việc kích thích tăng trưởng cơ bắp. Tổn thương cơ (Muscle Damage): Các vết rách nhỏ ở sợi cơ trong quá trình tập luyện kích thích việc cơ thể phục hồi. Tất nhiên không phải càng tổn thương càng tăng cơ nhiều mà nó là một quá trình sẽ xảy ra khi tập luyện cơ bắp nên không thể bỏ qua. Và thực tế cũng không thể tách rời chúng trong nghiên cứu về phì đại cơ bắp. Áp lực chuyển hóa (Metabolic Stress): Khi tập luyện, cơ bắp phải sử dụng năng lượng và bị phá vỡ nên các phản ứng trao đổi chất diễn ra tạo ra nhiều hợp chất bao gồm cả hormone, các chất thải chuyển hóa và các yếu tố kích thích tăng trưởng. Theo thời gian, nó gây ra việc tích tụ các chất chuyển hóa có thể thúc đẩy phản ứng sau đó của cơ thể gây ra sự phì đại cơ bắp. Chất cồn và tổng hợp Protein cơ bắp Tổng hợp protein cơ (Muscle Protein Synthesis - MPS) là quá trình cơ thể sửa chữa và xây dựng mô cơ. Chất cồn có thể làm suy yếu đáng kể MPS, làm giảm khả năng phục hồi và phát triển cơ bắp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất cồn có thể làm giảm MPS tới 37% khi tiêu thụ cùng với carbohydrate và protein ( Link ) Chất cồn cũng làm suy giảm hệ thống trao đổi chất nói chung, dẫn tới nguy cơ thừa cân, béo phì khiến cơ thể dễ tăng mỡ nhưng khó tăng cơ ( Link ). Những điều này có thể cản trở sự phát triển và phục hồi của cơ, khiến việc đạt được trạng thái phì đại cơ trở nên khó khăn hơn. Đồng thời có mối liên quan của việc dùng nhiều rượu bia đến tình trạng béo phì gia tăng. Điều này gây ra những rối loạn sinh lý khiến chúng ta khó tăng cơ hơn. ( Link ) Ảnh hưởng Hormones Chất cồn ảnh hưởng đến hoạt động của hệ nội tiết ( Link ) trong đó có nhiều loại hormone đóng vai trò trong quá trình phát triển và phục hồi cơ bắp: Testosterone : Testosterone cần thiết cho sự phát triển cơ ở cả nam và nữ. Nồng độ Testosterone có thể giảm do uống rượu ( Link ) ( Link ). Cortisol: Nhiều nghiên cứu cho thấy việc tiêu thụ chất cồn làm tăng mức cortisol, một loại hormone gây căng thẳng có thể phá vỡ mô cơ và ức chế sự phát triển của cơ.( Link ) ( Link ) ( Link ) Hormone tăng trưởng (HGH): Rượu bia có thể làm gián đoạn quá trình giải phóng hormone tăng trưởng, một chất rất quan trọng cho quá trình phục hồi và phát triển cơ.( Link ) ( Link ) Sự khác biệt về giới tính Mặc dù cơ chế cơ bản của phì đại cơ bắp ở nam và nữ là tương tự nhau, nhưng có một số cân nhắc riêng về giới tính: Sự khác biệt về hormone: Nam giới thường có mức testosterone cao hơn, điều này có thể khiến họ dễ bị ảnh hưởng tiêu cực của rượu đối với sự phát triển cơ bắp. Mặt khác, phụ nữ có thể bị ảnh hưởng rõ rệt hơn đến mức cortisol. Thành phần cấu trúc cơ thể (Body Composition): Phụ nữ thường có tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn, điều này có thể ảnh hưởng đến cách chuyển hóa rượu và tác động của nó lên mô cơ. ( Link ) Chất cồn và quá trình phục hồi Phục hồi là một thành phần quan trọng của bất kỳ chương trình rèn luyện sức mạnh nào. Rượu bia có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phục hồi theo nhiều cách: Mất nước : Chất cồn có tác dụng lợi tiểu, dẫn đến tăng việc sản xuất nước tiểu và mất nước. Rối loạn giấc ngủ : Giấc ngủ chất lượng đóng vai trò thiết yếu cho việc phục hồi cơ bắp. Rượu bia có thể làm gián đoạn giấc ngủ, làm giảm lượng giấc ngủ phục hồi và cản trở quá trình phục hồi. ( Link ) ( Link ) ( Link ) Hấp thụ chất dinh dưỡng: Rượu bia có thể cản trở quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng thiết yếu cho quá trình phục hồi và phát triển cơ, chẳng hạn như protein, vitamin và khoáng chất. ( Link ) Khuyến nghị ứng dụng thực tế Đối với những người thích uống rượu bia nhưng muốn tăng tối đa lượng cơ bắp, sau đây là một số gợi ý: Điều độ: Hạn chế lượng rượu bia tiêu thụ ở mức vừa phải (8 lon bia/14 ly rượu) tuần. Uống rượu thỉnh thoảng ít có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển cơ bắp so với việc uống rượu nặng mãn tính. Thời điểm: Tránh uống rượu ngay sau khi tập luyện. Cho cơ thể thời gian phục hồi và bắt đầu tổng hợp protein cơ trước khi uống rượu. Thời gian từ 4-5h hoặc hãy uống chậm lúc bắt đầu để hạn chế lượng nạp vào. Uống đủ nước: Duy trì đủ nước cho cơ thể bằng cách uống nhiều nước trước, trong và sau khi uống rượu. Dinh dưỡng: Đảm bảo bạn tiêu thụ đủ protein và các chất dinh dưỡng thiết yếu khác để hỗ trợ phục hồi và phát triển cơ trước thời gian nhậu. Kết luận Mặc dù rượu bia có thể có tác động bất lợi đến phì đại cơ và tập luyện sức mạnh, nhưng hiểu được những tác động này giúp đưa ra quyết định tốt hơn. Bằng cách điều độ lượng uống vào và ưu tiên phục hồi và dinh dưỡng, cả nam và nữ vẫn có thể đạt được mục tiêu thể dục của mình trong khi thỉnh thoảng thưởng thức đồ uống. Cân bằng các hoạt động xã hội với mục tiêu thể dục cũng là chìa khóa để duy trì lối sống lành mạnh và bền vững.
Một chương trình giảm cân tốt nhất cần có gì ?
Trải nghiệm nền tảng huấn luyện Fitness Base 2.0 với AI Coach, trình tính toán tiên tiến t ại đây ! Dù rất muốn khoe khoang những chương trình/khóa học do Vincent thiết kế là tốt nhất nhưng thực tế không phải vậy. Không có chương trình giảm cân tốt nhất, chỉ có những người giảm cân thành công nhất. Như trong chương trình truyền hình thực tế Biggest Losers, các thí sinh đều được áp dụng những cách thức giảm cân "cực hình" giống nhau được thiết kế bởi nhiều chuyên gia, huấn luyện viên nhưng không phải ai cũng thành công dù phần tiền thưởng để đi đến cuối chương trình là rất lớn. Tất nhiên, cần phải nhắc lại rằng, giảm cân nhanh chóng theo cách thức như vậy là vô cùng nguy hiểm. Vậy điều bạn cần có ở một chương trình giảm cân tốt là gì ? Trong bài viết này Vincent xin chia sẻ những điều cần có ở một chương trình giảm cân tốt nhất cho bạn. 1. Sự phù hợp. Điều có vẻ dễ dàng này lại là yếu tố quan trọng và thường bị bỏ qua nhất một cách vô tình hay cố ý. Thông thường khi tìm đến giảm cân, bạn chỉ nhận được những lời hứa khoa trương hay hình ảnh before after của một người mẫu fitness model nào đó. Sự ám thị về mặt quảng cáo này dẫn tới tính phù hợp bị chính bạn bỏ quên. Kết quả là bạn có thể mua hướng dẫn, tải app trả phí hoặc miễn phí nhưng bạn không giảm cân thành công vì ngay từ đầu bạn đã chọn sai. Sự phù hợp của một chương trình giảm cân cần mang tính cá nhân hóa, ở dưới dạng hướng dẫn linh hoạt giúp bạn thực hành việc giảm cân phù hợp với bản thân, lối sống và sinh hoạt của mình. Đơn giản hơn, nếu bạn là người không thích tập gym, thì dù bạn cố đi tập để giảm cân, bạn rất dễ bỏ cuộc. 2. Tính toàn diện. Sai lầm trong giảm cân được Vincent nhắc đi nhắc lại nhiều nhất là tính phiến diện, đơn nhất khi tiếp cận một công cụ giảm cân. Bạn không thể giảm cân nhờ vào 1 thứ thức ăn, 1 loại hình tập hay một phương pháp quái đản nào đó. Cũng giống như bạn không lên cân vì trót ăn thêm một chiếc bánh quy hay có một buổi tiệc thác loạn cuối tuần, bạn không thể giảm cân nhờ vào một vài thứ nhỏ lẻ. Một chương trình giảm cân toàn diện sẽ trang bị hoặc hướng dẫn cho bạn các kĩ năng để giảm cân lành mạnh, có một thói quen sống tốt, một sức khỏe tốt và tất nhiên, cách để giữ cân nặng khỏe mạnh. 3. Tính chi tiết. Đa phần những bạn muốn giảm cân càng muốn giảm cân nhanh nhất có thể. Nhưng sự thực thì điều đó không tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên dù bạn muốn giảm cân nhanh hay chậm, chương trình giảm cân của bạn cần được cụ thể hóa tối đa. Từng chi tiết trong cách tiếp cận thức ăn, liều lượng tập luyện, thời gian nghỉ ngơi. Bạn thử so sánh thế này, các cuốn sách viết về các loại hình ăn kiêng theo mốt thường có độ dày trung bình từ 150 - 300 trang còn không mang lại kết quả vậy thì một chương trình sơ sài theo concept "ăn thật ít tập thật nhiều" hoặc "cắt giảm calories, cắt giảm tinh bột, mỡ, tập luyện cardio kết hợp với tập tạ" liệu có hiệu quả không ? Một chương trình giảm cân tốt sẽ hướng dẫn bạn làm những điều trên như thế nào, liều lượng ra sao, trong bao nhiêu lâu... 4. Tính lâu dài. Một chương trình giảm cân tốt là một chương trình giảm cân khiến người ta có thể dễ dàng theo đuổi lâu dài. Vì thực tế, mọi sự thành công nằm ở bản thân của người giảm cân hơn là ở kiến thức khoa học mà chương trình ấy mang lại. Nếu mọi người có quyết tâm tìm hiểu, thật sự việc giảm cân không hề khó và không cần thiết đến những buổi PT 500k/h. Nếu một chương trình giảm cân yêu cầu người thực hành bắt buộc phải làm cái này hay cái kia là một chương trình tồi. Nếu bạn phải tập gym 6 buổi một tuần, kết hợp cardio và tập tạ cùng cắt bỏ tinh bột, chất béo và nhiều bắt buộc khác, bạn sẽ không thể giảm cân lâu dài. Một chương trình giảm cân khác với một lần hút mỡ nhanh ở chỗ, chúng phải giúp bạn có được sức khỏe và duy trì hình thể lâu dài. Nếu chỉ giảm cân nhanh sau đó lại tăng cân và hại sức khỏe hơn, điều đó còn có ý nghĩa gì nữa ? 5. Tính phân kì. Vincent nói đến khái niệm huấn luyện phân kì rất nhiều ở phần lý thuyết tập luyện tuy nhiên với một chương trình giảm cân tốt, điều này là bắt buộc. Với giảm cân, vốn là một điều không tự nhiên, bạn cần có những cột mốc thời gian và mục tiêu cụ thể để theo đuổi. Đây cũng là lí do các loại hình ăn kiêng thường thất bại vì không hướng dẫn cho người sử dụng một mốc thời gian hay một mục tiêu cụ thể. Bạn cứ ăn Keto, Paleo hay Atkins và để xem kết quả cá nhân bạn ra sao. Theo rất nhiều năm nghiên cứu tổng kết từ các chuyên gia huấn luyện chung, một phân kì huấn luyện tiêu chuẩn thường nằm ở 6 - 12 tuần. Tuy nhiên cũng có rất nhiều những chương trình giảm cân nhanh 7 ngày hay 30 ngày thay đổi đươc thiết kế ra. Với những phân kì ngắn như vậy, bạn nên cân nhắc vì hiệu quả đi kèm với thời gian và hiệu ứng Yo-yo cùng những ảnh hưởng tiêu cực khi giảm cân quá nhanh. Như rất nhiều trường hợp thí sinh sau khi giảm tới hơn 50kg trong chương trình The Biggest Loser đều tăng cân lại kèm theo một hệ thống cơ thể bị "làm hỏng". Đặc biệt vào mùa thứ 9 theo nghiên cứu của Học viện sức khỏe quốc gia Hoa Kì, có tới 16 thí sinh tăng cân hơn gấp đôi trở lại. Theo các chuyên gia, với các thí sinh này, hệ trao đổi chất bị hư hại tới mức không thể phục hồi kịp khiến họ tăng cân gấp đôi trở lại dù cố gắng ăn rất ít để duy trì cân nặng. Tóm lại, một chương trình giảm cân tốt phải là một chương trình giúp bạn giảm cân hiệu quả, nâng cao sức khỏe và giữ vững cân nặng khỏe mạnh. Khi bạn quyết định chọn một chương trình giảm cân, hãy lưu ý đến yếu tố khoa học trước khi đổ tại tâm lý hay quyết tâm của chính mình. Không có tốt nhất, chỉ có phù hợp nhất.
"Tập gym" quá nhiều gây suy thận chết người ? Cách phòng tránh Tiêu cơ vân trong tập luyện
Rhabdomyolysis, tạm dịch: Tiêu cơ vân, thường gọi tắt là Rhabdo chỉ tình trạng khiến cơ của bạn bị phá vỡ, có thể dẫn đến chết cơ. Khi điều này xảy ra, các thành phần của sợi cơ như CPK/CK (Creatine Kinase), urate, myoglobin, kali, axit amin... sẽ xâm nhập vào hệ thống tuần hoàn của bạn làm tăng nồng độ trong máu của chúng. Điều này có thể gây tổn thương cho các cơ quan nội tạng như tim, gan, thận. Gan có thể sẽ mất khả năng hoạt động vì quá tải. Tiếp đến là thận và trái tim. Rhabdo cũng có thể đến từ sự phá vỡ cơ bắp do chấn thương cơ trực tiếp hoặc gián tiếp. Nếu không được điều trị ngay có thể dẫn đến tổn thương gan, thận. Có thể bạn chưa biết, hàng năm tại Mỹ có tới 25,000 ca Rhabdo được báo cáo y tế ghi nhận ( Link ). Một số dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của tiêu cơ vân là yếu cơ, cứng cơ, đau cơ và thay đổi màu nước tiểu sang sẫm màu, màu trà. Các triệu chứng khác bao gồm sưng cơ, lượng nước tiểu thấp, mệt mỏi, có vết bầm tím, đi tiểu không thường xuyên, một cơn sốt, một cảm giác khó chịu, hoặc cảm thấy không khỏe, buồn nôn và nôn mửa khi tập, lú lẫn hay quên và cả kích động. Các triệu chứng của Rhabdo có thể từ nhẹ đến nặng. Các triệu chứng thường phát triển từ một đến ba ngày sau khi bị chấn thương cơ. Một điều cần lưu ý rằng, với một số người thậm chí họ có thể không nhận thấy đau nhức cơ nhưng vẫn bị Rhabdo ( Link ). Rhabdomyolysis là một điều kiện có thể gây tử vong. Nó có thể gây tổn thương thận cấp tính do tăng kali máu nghiêm trọng, tổn thương thận cấp tính (AKI) và sốc giảm thể tích. Tỷ lệ tử vong do suy thận cấp từ rhabdo ở bệnh nhân chấn thương có thể lên tới 20%. Khi nhập viện trong tình trạng cấp cứu, tỷ lệ tử vong là 22% nếu không có tổn thương thận cấp tính và 59% nếu suy thận xảy ra. Nếu không được điều trị kịp thời, người bị rhabdo sẽ phải thay thế thận ( Link ). Rhabdo cũng có thể gây ra rối loạn nhịp tim ở mức nguy hiểm (arrhythmia). Nếu không được điều trị trong một thời gian dài, Rhabdo có thể dẫn đến bất thường về điện giải, hạ albumin máu, tăng axit uric máu, hội chứng khoang ( compartment syndrome ), AKI và suy thận, đông máu nội mạch lan tỏa (DIC, một biến chứng muộn) ( Link ). Nguyên nhân của Rhabdo Nguyên nhân của Tiêu cơ vân bao gồm tập thể dục cường độ cao liên tục không nghỉ, mất nước nghiêm trọng và quá nóng, dùng thuốc. Các nguyên nhân khác bao gồm chấn thương do va đập chẳng hạn như do tai nạn ô tô, ngã hoặc sập tòa nhà, chèn ép cơ do bất động kéo dài sau khi bị gãy xương hoặc ngã, chấn thương do điện giật, sét đánh hoặc bỏng cấp độ ba, nọc độc từ rắn hoặc côn trùng cắn. Các nguyên nhân không do chấn thương bao gồm sử dụng rượu hoặc các loại thuốc bất hợp pháp như heroin, cocaine hoặc amphetamine, căng cơ quá mức ở các vận động viên được đào tạo và không được đào tạo, dùng liều cao một số loại thuốc, say nắng, co giật, hiếu động thái quá ở bệnh nhân cai rượu, nhiễm toan ceton do tiểu đường , các bệnh về cơ (bệnh cơ) như thiếu men cơ bẩm sinh hoặc loạn dưỡng cơ Duchenne và nhiễm vi-rút như cúm, HIV hoặc vi-rút herpes simplex ( Link) . Các lựa chọn điều trị cho Tiêu cơ vân bao gồm xác định nguyên nhân và lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp dựa trên tình trạng và mức độ nghiêm trọng. Chạy thận có thể được thực hiện nếu có tổn thương thận và suy thận. Liệu pháp tiêm tĩnh mạch với bicarbonate sẽ giúp loại bỏ myoglobin. Rhabdo khi tập luyện Tiêu cơ vân do tập thể dục, còn được gọi là tiêu cơ vân do gắng sức (Exertional Rhabdomyolysis), là tình trạng mô cơ bị phá vỡ quá mức và giải phóng các chất có hại vào máu. Nó có thể gây đau cơ, cứng khớp, sưng tấy, mệt mỏi, nhức đầu và nước tiểu sẫm màu. Nó cũng có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như suy thận, hội chứng khoang và rối loạn nhịp tim. Nó có thể xảy ra ở bất kỳ ai tập thể dục quá mạnh, lặp đi lặp lại hoặc quá lâu, đặc biệt là ở những người không được đào tạo, không phù hợp, thừa cân hoặc ốm yếu, hoặc trong môi trường nóng hoặc độ cao ( Link ). Rhabdo không chỉ xảy ra ở tập kháng lực mà còn có thể xảy ra ở cả các môn thể thao sức bền với nhiều độ tuổi khác nhau và kể cả ở phụ nữ ( Link ) ( Link ). Với tập tạ, Rhabdo có nhiều khả năng xảy ra ở những người thực hiện nhiều sets với mức tạ nặng hoặc liên tục đẩy các sets của họ tới mức thất bại hoàn toàn hoặc cả hai (Như với môn CrossFit - Link ). Cơ hội phát triển tiêu cơ vân tăng lên khi luyện tập nhiều nhóm cơ, ở nhiệt độ khắc nghiệt hoặc khi không được cung cấp đủ nước. Các kiểu tập chạy đua theo thử thách như Squat 1000 reps có thể gia tăng nguy cơ Rhabdo. Nguy cơ tăng gấp ba lần với một số loại thuốc, bao gồm statin hoặc thuốc chống loạn thần. Nâng vật nặng hơn với số lần lặp lại ít hơn , như trong một chương trình rèn luyện sức mạnh truyền thống, thường không dẫn đến rhabdo. Khi phát hiện dấu hiệu của Rhabdo, bạn cần ngừng tập ngay. Trong các trường hợp có biểu hiện nặng, bạn cần được chăm sóc và điều trị y tế nhanh chóng. Đồng thời sau khi đã được điều trị bạn cũng cần cẩn thận khi trở lại việc tập luyện. Thời gian phục hồi từ Rhabdo khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng và việc có bất kỳ biến chứng nào hay không. Nếu tình trạng này được nhận biết và điều trị sớm, hầu hết các biến chứng nghiêm trọng có thể tránh được và bạn có thể hồi phục hoàn toàn. Phục hồi từ Rhabdo do tập thể dục, nếu không có biến chứng lớn, có thể mất vài tuần đến vài tháng để bệnh nhân tập thể dục trở lại mà không tái phát các triệu chứng. Điều quan trọng là làm theo lời khuyên và khuyến nghị của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe của bạn để điều trị và phục hồi tốt nhất. Nghỉ ngơi giúp bạn cảm thấy tốt hơn trong quá trình điều trị và huấn luyện viên có thể khuyên bạn nên đợi vài tuần đến vài tháng trước khi tiếp tục các hoạt động tập thể dục trở lại. Các cách phòng tránh Rhabdo khi tập luyện Cách phòng tránh tốt nhất là tìm ra liều lượng tập luyện phù hợp với hồ sơ thể hất hiện tại của bạn. Xem lại các mức thất bại hay các nấc thang đo độ gắng sức như RPE để giúp bạn xác định đúng mục tiêu cho từng buổi tập, từng giai đoạn tập. Trong nhiều trường hợp cần xác định rõ mục tiêu có phù hợp hay không để tránh những ám ảnh về hình thể hay cái tôi quá cao. Tránh việc tùy tiện tập theo thử thách kiểu 1000 reps squat hay deadlift "tới chết" để làm nội dung trên MXH. Một lưu ý là, bạn không nên nhầm lẫn Rhabdo với DOMS - đau nhức cơ khởi phát muộn. DOMS so với Rhabdo sẽ "nhẹ nhàng" hơn và thường xảy ra sau 24-72h sau tập chứ không có tiến triển tồi tệ thêm qua từng giờ ngay sau tập. Để ngăn ngừa Rhabdo khi tập thể dục và các hoạt động vận động nói chung, bạn có thể thực hiện các bước sau: Tăng dần cường độ và thời gian tập luyện theo thời gian để cơ thể bạn thích nghi với sự căng thẳng của việc tập luyện. Lắng nghe cơ thể của bạn và nghỉ giải lao hoặc ngừng tập thể dục nếu bạn bắt đầu cảm thấy không khỏe. Uống đủ nước trước, trong và sau khi tập thể dục. Điều này sẽ làm loãng nước tiểu của bạn và giúp thận của bạn loại bỏ bất kỳ myoglobin nào mà cơ bắp của bạn có thể đã giải phóng trong khi tập thể dục. Tránh uống rượu bia trước/trong khi tập luyện hay làm việc dưới trời nóng. Nghỉ giải lao ở một khu vực mát hơn để giúp ngăn chặn rhabdo. Xin lưu ý rằng công việc hoặc các hoạt động liên quan đến gắng sức và/hoặc tiếp xúc với nhiệt độ cao có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh rhabdo. Hãy cố gắng tránh những yếu tố rủi ro này nếu có thể. Tìm hiểu các dấu hiệu và triệu chứng của các bệnh liên quan đến nhiệt độ cao và thực hiện các bước để tránh bị quá nóng. Hãy nhận biết bất kỳ loại thuốc hoặc chất bổ sung nào bạn đang dùng có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tiêu cơ vân. Điều quan trọng là phải lắng nghe cơ thể của bạn và không cố gắng quá sức. Nếu bạn bắt đầu gặp bất kỳ triệu chứng rhabdo nào, hãy dừng hoạt động hiện tại của bạn ngay lập tức, hạ nhiệt, bắt đầu uống nước và đến nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để được kiểm tra rhabdo ( Link ).
Cách tính % Body Fat
Bài trước: Inbody có chuẩn không ? Tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể là thước đo quan trọng về sức khỏe, được coi là hữu ích và chính xác hơn chỉ số cân nặng hoặc chỉ số khối cơ thể (BMI). Mỡ cơ thể được lưu trữ trong mô liên kết được gọi là mô mỡ. Bạn tăng mỡ trong cơ thể nếu bạn ăn nhiều calo hơn mức cơ thể sử dụng, điều này làm tăng nguy cơ béo phì và bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh tim, đột quỵ, tiểu đường, viêm khớp và một số bệnh ung thư.[ Link ] Do đó, lượng mỡ trong cơ thể là một thước đo hữu ích để theo dõi tiến trình của một chế độ tập thể dục và ăn kiêng. Hiện có nhiều công cụ để đo tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể, nhưng những công cụ này khác nhau về khả năng chi trả, khả năng tiếp cận và độ chính xác. Trong số này, thước đo lượng mỡ cơ thể là một lựa chọn phổ biến rộng rãi, nhưng có thể khó sử dụng để có được kết quả chính xác. Có nhiều cách để đánh giá thành phần cơ thể giữa các cá nhân chính xác hơn so với việc đo chỉ số BMI. Những cách đo lượng mỡ cơ thể này bao gồm sử dụng thước cặp da (Skinfold Caliper), đo chu vi cơ thể, cân thủy tĩnh, trở kháng điện sinh học, phép đo thể tích dịch chuyển không khí và quét cơ thể 3D. (Tham gia Fitness Base 2.0 để trải nghiệm chức năng AI Coaching, trình tính toán tích hợp sẵn ( tại đây )) DEXA (Phép đo hấp thụ tia X năng lượng kép) thường được cho là phương pháp ước tính tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể chính xác nhất, nhưng nó gần tương đương với phép đo thể tích dịch chuyển không khí, cân thủy tĩnh và công nghệ quét cơ thể 3D. Điều quan trọng cần lưu ý là, trong khi hữu ích, tất cả các phương pháp đánh giá này là ước tính, không phải là thước đo thực sự. Cách thực sự duy nhất để đo lường chính xác, chứ không phải ước tính, thành phần cơ thể là thông qua khám nghiệm tử thi. Ví dụ, phép đo chu vi cơ thể sẽ cho độ chính xác từ thấp đến trung bình nhưng lại vô cùng tiện lợi và tiết kiệm chi phí. Phép đo BIA Inbody hay Cân mỡ cơ thể đều sử dụng phương pháp Phân tích trở kháng điện sinh học (BIA) để ước tính tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể. Nhưng cân mỡ thường có giá rẻ hơn các máy inbody thường dùng tại các trung tâm thể dục hoặc bệnh viện. BIA gửi một xung điện yếu qua cơ thể và tốc độ dòng điện di chuyển bị ảnh hưởng bởi lượng chất béo trong cơ thể. Chất béo gây ra lực cản (trở kháng) lớn hơn khối lượng nạc và làm chậm tốc độ dòng điện chạy. (Xem thêm: Inbody có chính xác không ?) Để sử dụng Cân đo lượng mỡ trong cơ thể hoặc máy Inbody chính xác nhất có thể và đảm bảo kết quả đọc nhất quán, hãy làm theo các mẹo sau: - Đảm bảo rằng cân của bạn được đặt trên một bề mặt bằng phẳng. - Không đi tất hoặc giày khi đo thành phần cơ thể. - Mặc càng ít quần áo càng tốt hoặc phù hợp với số lượng quần áo bạn mặc khi đo. - Sử dụng cân trước khi uống cốc nước đầu tiên trong ngày và trước khi bạn ăn bất cứ thứ gì. - Nhất quán với thời gian bạn sử dụng thang đo. Hãy nhớ rằng phương pháp này cung cấp ước tính sơ bộ về tỷ lệ phần trăm mỡ trong cơ thể của một người và có thể không chính xác bằng các phương pháp khác yêu cầu thiết bị đặc biệt hoặc dịch vụ chuyên gia như DEXA Scan. Tham gia Fitness Base 2.0 để trải nghiệm chức năng AI Coaching, trình tính toán tích hợp sẵn ( tại đây ) Phép đo chu vi cơ thể: Một phương pháp ước tính thành phần cơ thể rất dễ tiếp cận và dễ thực hiện khác là đo chu vi các số vòng cơ thể. Cụ thể hơn, những thứ như tỷ lệ vòng eo trên hông, tỷ lệ vòng eo trên chiều cao và chu vi cổ là những cách để ước tính thành phần cơ thể. Có dữ liệu tốt cho thấy các biện pháp khác nhau tương quan tốt như thế nào với tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể. Thật thú vị, tỷ lệ vòng eo trên cân nặng dường như là chính xác nhất (Dong et al., 2018). Cách thực hành phương pháp này như sau: - Thực hiện các phép đo đầu tiên vào buổi sáng để có kết quả chính xác nhất. - Sử dụng thước dây mềm, dẻo (vải hoặc sợi thủy tinh) để thu thập các con số. - Đo chu vi vòng eo, cổ và hông của bạn. Đối với nam, chỉ đo vòng eo, còn đối với nữ, đo cả các bộ phận khác trên cơ thể, bao gồm hông, cổ tay và cẳng tay. - Thước dây phải đủ chắc chắn trên da của bạn để giữ cố định nhưng không quá chặt đến mức gây ra vết lõm. - Công thức tính tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể thay đổi tùy theo độ tuổi và giới tính. Ví dụ: phương pháp ước tính lượng mỡ cơ thể của Bộ Quốc phòng Mỹ sử dụng chiều cao và chu vi vòng eo của bạn trừ đi chu vi cổ nếu bạn là nam hoặc chu vi vòng eo của bạn, chu vi vòng hông, chu vi cổ và chiều cao nếu bạn là phụ nữ. Tham khảo tại đây . Phép đo thước cặp da: Độ chính xác của phép đo nếp gấp da bằng thước cặp nằm trong khoảng ± 3,5-5%. Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo thành phần cơ thể bằng thước cặp, bao gồm thiết bị, trình độ chuyên môn của người kiểm tra và phương trình nào được sử dụng để dự đoán. Tuy nhiên, thước cặp da vẫn có thể cung cấp một cách tương đối chính xác và nhanh chóng, giá cả phải chăng để đo sự thay đổi thành phần cơ thể theo thời gian. - Lấy tất cả các phép đo ở phía bên phải của cơ thể. - Hãy chắc chắn rằng nhóm cơ được đánh giá được thả lỏng. - Lấy một nếp da giữa ngón cái và ngón trỏ. - Giữ thước trên và vuông góc với nếp gấp da. - Điểm đo của nếp gấp da phải bằng một nửa chiều dài của nếp gấp. - Lặp lại phép đo cho từng vị trí nếp gấp da và tính giá trị trung bình. - Sử dụng công thức để chuyển đổi tổng số đo nếp gấp da thành tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể. Hãy nhớ rằng độ chính xác của thước cặp da để đo tỷ lệ mỡ cơ thể phụ thuộc vào cả kinh nghiệm của người sử dụng thước cặp và công thức được sử dụng để tính kết quả. Có hơn 100 phương trình được sử dụng để tính tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể từ các phép đo, vì vậy, điều quan trọng là phải chọn một công thức hợp lý phù hợp với bạn. Các phương trình phổ biến bao gồm Jackson & Pollock, Parrillo và Navy Tape. Video tham khảo: Phép đo bảy khu vực. Tham khảo trình tính toán tại đây. Trong thế giới hiện tại, % Body Fat thường bị đẩy lên quá mức thành nỗi sợ, nỗi ám ảnh với nhiều bạn trẻ. Tuy nhiên, thực tế cũng giống như rất nhiều chỉ số sức khỏe khác, cân nặng, BMI, khối lượng nạc, sức bền, sức mạnh... chúng ta cần hiểu đúng vai trò của nó và đặt nó trong một tổng thể hoặc ngữ cảnh khi diễn dịch. Với huấn luyện Fitness, bạn cần đặt % body fat trong hồ sơ thể chất của mình hoặc của khách hàng để từ đó đưa ra những đánh giá chính xác và đầy đủ hơn.
Nhịn ăn gián đoạn (IF) dễ làm mất cơ ?
Xem thêm: Nhịn ăn sáng làm tăng mỡ ? Nhiều chuyên gia "chuẩn Google" thường lấy lý do nhịn ăn dễ mất cơ hơn ra để hù dọa các tín đồ tập gym thích tăng cơ giảm mỡ . Cũng như nỗi sợ tăng mỡ ở chị em phụ nữ, nỗi ám ảnh mất cơ bắp mang chiều hướng Bigorexia ở các bạn nam khiến rất nhiều người dễ cảm thấy lo sợ khi đi tập nhưng trước đó không có gì vào bụng. Tuy nhiên trừ trường hợp bạn bị chấn thương nào đó hoặc dùng steroids "bơm cơ" như các vận động viên thể hình, những mô cơ bắp chất lượng của bạn không dễ bị hao hụt. Một nghiên cứu so sánh giữa IF và Cắt giảm calories cho thấy, cũng đều có thể khiến bạn giảm cân nhưng IF có thể giúp bạn giữ cơ bắp nhiều hơn trong khi hiệu quả giảm mỡ không khác biệt ( Link1 ) . Một số nghiên cứu khác không cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ cơ bắp khi áp dụng IF để giảm cân ( Link2 , Link3 ). Tất nhiên những nghiên cứu này cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ quan niệm sai lầm rằng thực hành IF sẽ mất cơ nhiều hơn so với các phương pháp giảm cân khác. Còn thực chất, khi nghiên cứu so sánh IF và các phương pháp giảm cân khác, các chuyên gia cần loại bỏ các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến kết quả như bản thân chương trình tập, yếu tố thích ứng của từng cá nhân.... Năm 2020, một phân tích tổng hợp 22 nghiên cứu RCT với 647 người tham gia khác cho thấy, khi so sánh cùng điều kiện calories, việc giảm tần suất bữa ăn có lợi thế trong giảm cân, giảm vòng eo ( Link4 ) . Thực ra những lời hù dọa kiểu này đã tồn tại với nỗi ám ảnh sợ mất cơ từ những thời kì đầu tiên của bộ môn thể hình. Tuy nhiên, các quan niệm bro-science từ thể hình không đại diện cho thể thao đại chúng và toàn bộ ngành fitness. Chưa kể đến việc người tập luyện tự nhiên khác với tập luyện có dùng các chất kích thích như Steroids , HGH hay Sarms . Nếu nhịn ăn dễ làm mất cơ, có nghĩa quá trình dị hóa catabolism sẽ diễn ra nhiều hơn, "nặng đô hơn". Và các bạn biết quá trình dị hóa đại biểu cho điều gì không ? Chính là quá trình phá vỡ các phân tử phức tạp thành các phân tử nhỏ hơn để giải phóng năng lượng. Hoạt động trao đổi chất bao gồm 02 quá trình đồng hóa và dị hóa diễn ra mọi lúc và gắn chặt với nhau. Trong cùng một điều kiện năng lượng nạp vào, sự khác biệt nếu có sẽ tạo ra sự ảnh hưởng đến tổng năng lượng tiêu thụ. Nhưng như ở bài viết trước về Intermittent Fasting đã nêu rõ, việc tăng tần suất bữa ăn, không tạo ra sự ảnh hưởng đến tổng năng lượng tiêu thụ hàng ngày (TDEE) và có đến hàng tá nghiên cứu chứng minh cho điều này. Năng lượng không tự nhiên sinh ra hay mất đi. Và số năng lượng từ việc "mất cơ" do IF như các chuyên gia online đang hù dọa, nếu có, sẽ cần phải được dùng để làm gì đó. Để xây dựng các tế bào thần kinh não bộ hay được thải ra ngoài môi trường khi họ "chém gió" ? Thực tế về mặt sinh lý học, quá trình dị hóa thường rất khó bị thay đổi với biên độ lớn trong thời gian ngắn do nó là quá trình cần thiết để tạo ra năng lượng. Hãy tưởng tượng xem nếu quá trình này không ổn định và dễ dàng thay đổi thì điều gì sẽ xảy ra ? Chúng ta sẽ mất cơ rất nhanh ! Các cố gắng để tăng cơ bắp của chúng ta đều tập trung vào tăng quá trình đồng hóa để làm tăng lượng protein tổng hợp lên. Việc tập luyện hiểu nôm na cũng nhằm phá vỡ cơ bắp để sau đó có thể bồi đắp lại bằng dinh dưỡng. Một nghiên cứu năm 2000 trên 11 người khỏe mạnh, lean, cho thấy nhịn ăn hoàn toàn trong một vài ngày đầu (1,2,3,4 ngày theo nghiên cứu) thậm chí khiến cho mức tiêu thụ năng lượng lúc nghỉ (REE) tăng dần lên đáng kể. Cơ chế được đưa ra là cơ thể chúng ta thích nghi với việc bị bỏ đói bằng cách tiết ra các hormone catecholamines kích thích thần kinh, tăng cường trao đổi chất nhằm dẫn tới tăng khả năng chiến đấu và tìm kiếm thức ăn. ( Link 5 ) Cũng nên nhớ rằng, nhịn ăn gián đoạn không phải bỏ đói hay mặc định phải cắt giảm calories. Và suy cho cùng, việc nhịn ăn hay ăn thêm nhiều bữa vẫn nằm ở nhu cầu và cách cơ thể chúng ta sử dụng dinh dưỡng. Miễn là nó phù hợp với kế hoạch dinh dưỡng hàng ngày của bạn và bạn cần chú ý cung cấp đủ dinh dưỡng cho cơ thể trong một ngày thay vì lo sợ vì những quan niệm hù dọa như trên. Cuối cùng, nếu đã cứ "cắt giảm calories auto giảm mỡ, ăn nhiều protein sẽ auto tăng cơ" như quan niệm " tăng cơ giảm mỡ " thần thánh của các huấn luyện viên Google, thực chất chẳng cần quan tâm đến những sự khác biệt về số lượng bữa ăn, thời gian ăn hay thậm chí các yếu tố phản ứng bên trong cơ thể. Vấn đề là cơ thể chúng ta là một hệ thống sinh học kỳ diệu, độc nhất vô nhị chứ không phải một chiếc xe hơi vật lý. Nhưng khi không thực sự hiểu rõ các nguyên lý nhưng lại thích dùng các khái niệm tiếng Anh nghe kêu để "phông bạt" cho hiểu biết sơ sài thô thiển của mình, các phát biểu như trên thường sẽ tự đá vào chân nhau.
Tổng hợp các vấn đề về tăng Testosterone tự nhiên
Trước sự quảng bá của truyền thông, các ngôi sao phim ảnh, role model, tăng Testosterone trở thành vấn đề ám thị với hầu hết các bạn trẻ ngày nay. Điều này đã trở thành hội chứng "Low-T phobia" như một bài viết trên website cùng với nó là ngành công nghiệp thực phẩm bổ sung, tăng cường sinh lý, tăng cường hormone có giá trị hàng chục tỷ USD. Không quá khi nói rằng trong đời một người đàn ông hiện đại, chắc chắn ít nhất một lần anh ta có sử dụng những sản phẩm này. Bản thân Vincent cũng đã nhận rất nhiều câu hỏi về Testosterone và chắc chắn sẽ còn rất nhiều bài viết, video làm về chủ đề này. Tuy nhiên đi kèm theo lợi nhuận, luôn có những mặt tối. Bài viết này sẽ tổng hợp các vấn đề đã được Vincent giải thích, làm rõ hoặc vạch trần về tăng Testosterone qua các bài blog và video trên kênh Youtube V-Aesthetics Fitness. Testosterone 101: Những vấn đề về Testosterone bạn cần biết Những hiểu lầm về tăng Testosterone nội sinh tự nhiên Sự thật về nỗi ám ảnh thiếu Testosterone ở người trẻ Sự thật về dùng TPBS Kẽm tăng Testosterone Sự thật về các tips tăng Testosterone tự nhiên trên mạng Tập chưa to là do thiếu Test ? Uống sữa đậu nành nhiều có giảm Testosterone hay không ? Bài học xương máu về stacking TPBS tăng Test , T-Booster TPBS Tăng Testosterone, T-Booster là phí tiền ? Dùng Tribulus tăng Test thế nào mới đúng ? Cảnh báo từ FDA về các loại TPBS Tăng Test ? Giảm Test sau 30 tuổi, những điều ít ai nói ? Tập gym nhiều làm giảm Testosterone ?
Thức ăn nhân tạo - Giấc mơ về hạt đậu thần Senzu
Nếu bạn nào yêu thích bộ phim Ma trận (the Matrix) chắc hẳn còn nhớ hình ảnh Keanu Reeves ngỡ ngàng thế nào khi được nhận loại thức ăn đến từ "thế giới tương lai" - một loại cháo dinh dưỡng màu trắng đục không mùi vị thay thế cho thực phẩm và thức ăn truyền thống của con người. Trong một thế giới khoa học viễn tưởng khi trái đất cạn kiệt các nguồn tài nguyên và loài người được sử dụng để tạo ra những cục pin, sẽ không có chỗ cho đầu bếp Michelin trổ tài. Hay như hạt đậu thần Senzu có thể giúp chúng ta no 10 ngày trong chuyện Bảy viên ngọc rồng huyền thoại, ước mơ tạo ra thức ăn dường như đã trở thành mục tiêu cao cả của toàn bộ ngành khoa học dinh dưỡng non trẻ của loài người. Trong bài viết này, Vincent sẽ chia sẻ cùng bạn những sự thật khoa học thú vị về thức ăn nhân tạo và sự kì diệu của dinh dưỡng. Vậy tại sao lại cần tạo ra thức ăn nhân tạo ? Thực ra từ rất nhiều thế kỷ trước đây, ý tưởng về thực phẩm nhân tạo đã thực sự nảy sinh trong rất nhiều bộ óc cấp tiến. Ước mơ biến chì thành vàng của các nhà giả kim thuật cũng không cháy bỏng bằng ước mơ tạo ra thứ có thể thay thế đồ ăn hơn khi dân số ngày càng tăng nhanh trong khi chúng ta vẫn phải chờ ít nhất 3-4 tháng để thu hoạch một vụ mùa. Bạn sẽ không bao giờ thấy một con sư tử có nhu cầu ăn thêm vài cái sườn hay những miếng bít tết linh dương. Con người chính là loài háu ăn nhất trên trái đất và chúng ta sinh sôi nhanh cũng không kém bất cứ loài côn trùng nào ! Có thể các bạn chưa biết, nông nghiệp là nguồn gây ra tới 14,5% lượng khí thải nhà kính, chiếm dụng 50% diện tích đất ở của loài người và 70% lượng nước sử dụng toàn cầu. Ngoài việc tiết kiệm vô số thời gian cho việc chuẩn bị mùa màng và các bữa ăn, thức ăn nhân tạo thực sự sẽ giải quyết được vô số khủng hoảng. Tất nhiên các bác nông dân cũng không cần lo lắng vì thực tế, điều này còn rất xa vời và dù thức ăn có được tổng hợp ra từ các nhà máy, cũng vẫn cần sức lao động khổng lồ mới đủ để cung cấp cho toàn bộ 8 tỷ cá nhân háu ăn trên toàn cầu. Từ bánh lương khô của lính Mỹ đến sản phẩm thức ăn bán tổng hợp: Từ những năm 1920s, tại Mỹ đã xuất hiện khái niệm "Meal Pill" để chỉ những viên uống tổng hợp dùng thay thế bữa ăn. Tới năm 1936, những bánh lương khô K-rations do Ancel Keys, một trong những nhà dinh dưỡng (nutritionist) tiên phong trên thế giới phát triển đã theo những người lính Mỹ rong ruổi khắp năm châu. Tất nhiên những chiếc bánh lương khô làm từ kẹo cứng, socola, xúc xích khô và bánh quy này không phải thực phẩm nhân tạo nhưng đã tạo ra cuộc cách mạng lớn trong ngành thực phẩm bổ sung, thay thế bữa ăn. Tiếp theo đó, với những thành công trong việc tạo ra các loại vitamins, chất dinh dưỡng nhân tạo trong các phòng thí nghiệm, cơn sốt thực phẩm bổ sung bùng nổ vào những năm 1960-1970 trên khắp thế giới. Tuy nhiên những sản phẩm này đều được tiếp thị "mập mờ" với khái niệm thay thế bữa ăn đã dẫn tới sự xuất hiện của hàng loạt các điều luật kiểm soát. Trong nửa cuối thế kỷ 20, Các nhãn hàng như Ensure, Plumpy'Nut thậm chí còn khoác lên mình biệt danh thực phẩm trị liệu tiện lợi (Ready to Use therapeutic food). Tuy nhiên chúng vẫn chỉ là những thực phẩm bán tổng hợp khi vẫn sử dụng tới những nguồn dinh dưỡng từ các sản phẩm nông nghiệp. Phát triển đến thế kỷ 21, ngôi sao sáng nhất cho giấc mơ tổng hợp thức ăn là một sản phẩm mang tên Soylent. Vào năm 2013, lấy tên từ một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, soylent được Rob Rhinehart, một kỹ sư phần mềm, tạo ra từ 35 loại thành phần hóa học khác nhau bao gồm potassium gluconate, calcium carbonate, monosodium phosphate, maltodextrin, xanthan gum... và dầu oliu. Vì cảm thấy việc chuẩn bị thực phẩm và các bữa ăn rất lãng phí thời gian nên Rob đã chỉ uống hỗn hợp tự chế này trong vòng 60 ngày và tự điều chỉnh công thức để tạo ra sản phẩm cuối cùng mang tên soylent. Tới năm 2015, Sản phẩm này đã gây quỹ được hàng chục triệu đô la Mỹ dưới cái tên công ty Soylent Nutrition và đã được bày bán công khai tại các chuỗi cửa hàng lớn nhất. Không những vậy, Soylent còn tạo cảm hứng cho cộng đồng tự chế (DIY) để tạo ra các loại thức ăn tổng hợp riêng với rất nhiều phiên bản khác nhau. Dù còn gây ra rất nhiều tranh cãi vì các vấn đề sức khỏe nhưng Soylent thực sự đã tạo ra cú hích mới cho ngành công nghiệp thực phẩm thay thế thức ăn vốn đã dần bão hòa một cách nhàm chán từ khi có những bánh lương khô đầu tiên. Sau Soylent nhưng cái tên như Huel, Jake Food, VitaminFood, JimmyJoy...đã trở thành những đối thủ cạnh tranh hàng đầu trong làng thay thế thức ăn hiện nay. Tuy nhiên những sản phẩm này vẫn dừng ở mức thay thế bữa ăn. Solein - Giấc mơ đã thành hiện thực ? Năm 2017, tại Phần Lan, một công ty start-up được thành lập với cái tên Solar Food. Mục tiêu của họ nghe có vẻ rất khoa trương: Tạo ra thức ăn từ không khí !. Nhưng họ đã thực sự làm được. Solein là sản phẩm mang sứ mệnh mục tiêu của Solar Food được tạo ra từ việc cho một con vi trùng ăn khí hydro tách ra từ nước, khí carbon tách ra từ không khí cùng với các chất dinh dưỡng và vitamin. Kết quả cho ra một sản phẩm dạng bột chứa 65% chất đạm còn lại là chất béo và tinh bột. Thậm chí dù mang tên là Solar Food nhưng việc sản suất Solein còn không cần dùng đến ánh sáng mặt trời trong quá trình tạo ra thức ăn của mình. Như những người đứng đầu Solar Food chia sẻ: "Chúng tôi làm được thứ cây trồng đang làm nhưng tốt hơn....vì chúng tôi không cần đến mặt trời !". Chúng ta có thể tạo ra hạt đậu thần Senzu hay không ? Câu trả lời là không. Chúng ta có thể tổng hợp ra các loại vitamin và nhét chúng vào một viên con nhộng bé xíu thay cho một mớ rau thịt và trái cây nhưng chúng ta không thể nén năng lượng lại được. Cơ thể cần có đủ năng lượng được tính bằng calories để hoạt động, hay nói cách khác, để sống. Trừ khi chúng ta có thể tạo ra một loại dinh dưỡng khác với nhóm dinh dưỡng đa lượng bao gồm chất béo, tinh bột và chất đạm. Xét một cách toàn diện hơn về mặt dinh dưỡng, 100 calories từ lon nước ngọt sẽ không "dinh dưỡng" bằng 100 calories từ miếng đậu. Nên cách cơ thể chúng ta đối xử với thức ăn tự nhiên và thức ăn nhân tạo sẽ khác nhau. Thức ăn tự nhiên không bao giờ có thể bị thay thế ! Đến những năm 1930, chúng ta mới khám phá ra các loại vitamin là cần thiết. Thậm chí trước đó, loài người còn không biết đến dinh dưỡng đa lượng là gì chứ đừng nói tới các loại vi chất cần thiết (trace mineral). Một chất thiết yếu như Choline chỉ mới được biết tới vào những năm cuối thế kỷ 20. Tới năm 2002, selen, chromium...mới được đưa vào danh sách các chất thiết yếu cho cơ thể. Biết đâu vẫn còn những chất dinh dưỡng cần thiết mà chúng ta chưa thể khám phá ra ? Nên có một sự thật sinh hóa học kì diệu là, chúng ta có thể tạo ra một hỗn hợp bao gồm tất cả các thành phần đã biết của miếng thịt bò và thêm vào đó mùi vị thịt bò giống tự nhiên nhất nhưng nó vẫn không phải một miếng thịt bò hoàn hảo. Thậm chí những thành phần đã biết ấy được chưng cất từ chính miếng thịt bò kia. Vì đơn giản, chúng ta vẫn chưa biết hết về miếng thịt bò dù sở hữu những chiếc kính hiển vi siêu đẳng nhất. Còn với thức ăn nhân tạo, sẽ rất khó đạt đến sự toàn hảo về mặt dinh dưỡng. Ít nhất là thời điểm hiện tại khi thế giới hữu cơ vẫn còn tràn ngập bí ẩn chưa được loài người khám phá. Vậy nên chúng ta có thể tạo ra thứ có thể ăn được từ nước và không khí nhưng vẫn còn kém xa Mẹ tự nhiên vĩ đại về khả năng tạo ra những thức ăn thơm ngon, đầy dinh dưỡng và đủ năng lượng. Nên dù bạn có sử dụng hàng chồng supplement cung cấp từ protein, chất béo có lợi, tinh bột, vitamin và khoáng chất đi chăng nữa, bạn vẫn sẽ thiếu chất và không đủ dinh dưỡng. Thêm vào đó, thức ăn không chỉ là một mớ các chất trộn lại với nhau, nó còn là một phần văn hóa tạo nên bản sắc và sự đa dạng của các dân tộc. Nên cũng giống như chúng ta không thể có một ngôn ngữ dùng chung toàn cầu, khi tất cả phải ăn cùng một loại cháo, con người cũng sẽ tạo ra những phiên bản thức ăn theo văn hóa của riêng họ. Khi đó nhân tạo hay không sẽ không còn quá quan trọng nữa.
Lược sử Doping và thể thao Olympic
Cảnh báo: Sử dụng PED: Các chất kích thích cơ bắp, sức mạnh có mối nguy hại rất lớn tới sức khỏe ! Khi phải cạnh tranh trong cuộc sống, con người luôn tìm mọi cách để có thể đạt được điều mình muốn. Điều này đã trở thành bản tính và được thể hiện mạnh mẽ hơn qua thi đấu thể thao. Và đi kèm với khát khao chiến thắng thuần túy, luôn có sự hiện diện của những trò gian lận để đạt được điều đó. PED (Performance Enhancing Drugs) tên gọi chung cho các loại chất tổng hợp nhân tạo nhằm tăng cường sức mạnh cơ bắp cũng như cấu trúc hình thể người cho mục đích thi đấu, trình diễn. Doping chỉ việc sử dụng những chất "phi tự nhiên" này một cách bất hợp pháp trong thi đấu thể thao. Lịch sử thể thao luôn có dấu ấn của PED/Doping dù vô tư hay cố ý. Trong bài viết này Vincent xin chia sẻ lược sử ngắn gọn về nhân vật đen tối này. ( Xem thêm playlist TPBS thể hình fitness chuyên sâu trên kênh YT Coach Vincent Fitness tại đây ) 1. Thời kì đầu Có thể bạn sẽ rất ngạc nhiên, nhưng Doping đã được sử dụng từ hơn 100 năm trước tại Olympic. Vào kì Olympic Mùa hè năm 1904 tại Mỹ, vận động viên chạy marathon người Mỹ gốc Anh Tom Hicks đã được coach của mình là Charles Lucas cho dùng 1 ít strychnine (1 chất kích thích thần kinh) pha với rượu mạnh và một ít lòng trắng trứng trước khi thi đấu. Tom Hicks sau đó đã về nhất hạng mục này nhưng đã ngất xỉu khi kết thúc chặng đua và phải lập tức được cấp cứu y tế. Dù vị coach của Tom đã thừa nhận cho anh dùng không chỉ 1 mà hai liều strychnine, nhưng chiến thắng của Tom đã không bị tước đoạt và vượt qua những lời chỉ trích. Do được thừa nhận từ chính chủ, sự kiện này cũng trở thành trường hợp sử dụng Doping đầu tiên tại Olympic được ghi chép một cách chính thức. Strychnine hiện tại được xếp vào nhóm độc chất, thường dùng cho thuốc trừ sâu và diệt côn trùng, động vật gây hại. Tuy vậy thực tế, vào năm 2016, cũng đã có trường hợp định tái lập lại việc sử dụng chất này tại Olympic nhưng đã bị phát hiện và ngăn chặn. Vào thời kì đầu, khái niệm Doping và PED còn được sử dụng chưa tách biệt và đặc biệt chưa có sự xuất hiện của Steroid đồng hóa. 2. Testosterone tổng hợp nhân tạo và cuộc chiến Đông - Tây: Vào năm 1927, lần đầu tiên việc cô lập testosterone được tiến hành thành công trong phòng thí nghiệm bởi một nhà hóa học hữu cơ, Fred Koch, tại đại học Chicago Mỹ. Điều đã tạo thành một cột mốc lịch sử trong nghiên cứu y sinh. Thí nghiệm trên động vật sau đó, Testosterone được chiết ra từ tinh hoàn của bò với phương pháp của Fred Koch có thể làm tăng trưởng cơ bắp cho gà trống thiến, tăng tính hiếu chiến trên gà mái và bò cái. Tuy nhiên phương pháp chiết Testosterone này lúc đó rất khó thực hiện và đắt đỏ. Vào năm 1935, tại Nam Tư, Testosterone nhân tạo được phát minh ra bởi nhà hóa học mang tên Leopold Ruzicka, từ việc biến đổi đổi cấu trúc phân tử của cholesterol. Một cách hợp pháp và tình nguyện, các nhà khoa học tại đây đã thử nghiệm Testosterone nhân tạo này trên người. Các cuộc thí nghiệm cho thấy sự tăng trưởng cơ bắp kinh ngạc của những chàng trai trẻ. Dù lúc đó các nhà khoa học vẫn chưa biết nguyên lý về việc hormone nhân tạo này tăng trưởng tổng hợp protein tại cơ bắp nhưng kết quả vẫn khiến toàn giới khoa học thể thao kinh ngạc. Những người sử dụng Testosterone nhân tạo không chỉ tăng mạnh về cơ bắp mà còn tăng trưởng cả về sức mạnh. Năm 1945, Thế chiến thứ hai kết thúc bằng cuộc chia đôi nước Đức thành Đông Đức và Tây Đức. Tiếp theo đó, thời đại chiến tranh lạnh giữa hai thế lực siêu cường trên thế giới là Nga và Mỹ cũng tạo ra cuộc chiến trên tất cả các mặt trận của đời sống. Thể thao cũng không nằm ngoại lệ. Tại các kì thế vận hội cho đến các sân bóng đá, vận động viên đến từ các nước xã hội chủ nghĩa cạnh tranh gay gắt với các anh tài thuộc khối tư bản. Năm 1952 tại kì Olympic Mùa hè tại Hensinki, Phần Lan, trong lần tham dự Olympic đầu tiên của mình, các vận động viên từ Liên Bang Xô Viết đã chiếm trọn spotlight các bộ môn cử tạ. Điều này dẫn tới những nghi ngờ về việc sử dụng Testosterone nhân tạo từ các huấn luyện viên, chuyên gia người Mỹ. Sau đó vào năm 1954, tại giải vô địch Cử tạ thế giới, mối nghi ngờ này được chính chủ xác nhận dẫn tới việc người Mỹ bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng Testosterone vào thể thao dù vẫn còn rất dè dặt. Và cho tới Olympic tại Úc năm 1956, khi vận động viên Xô Viết, Arkady Vorobyov, người đã sử dụng Testosterone (a.k.a steroid) dài kì hủy diệt các vận động viên Mỹ khi nâng được mức tạ (<90kg) hơn gấp đôi trọng lượng cơ thể (>180kg), người Mỹ chính thức đẩy mạnh việc ứng dụng PED cho các vận động viên của mình. Và khi người Mỹ đã vào cuộc một cách nghiêm túc, kéo theo hàng loạt các nước liên quan thuộc hai khối thế giới tham gia vào cuộc đua khoa học ứng dụng. Chính sự cạnh tranh này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển và bùng nổ của Doping những năm 1960. Trong thời kì này, việc sử dụng Doping trong các kì thi đấu Olympic diễn ra "như cơm bữa" đặc biệt tại các bộ môn sức mạnh như cử tạ hay sức bền như các môn chạy. Thậm chí các tờ báo còn thường dùng hình ảnh những kim tiêm, ống thuốc đã qua sử dụng nằm la liệt trong các phòng thay đồ để mô tả tình trạng sử dụng rất nhiều dược chất tăng cường vận động vào thời kì này. 3. IOC chính thức cấm Doping Ủy Ban Olympic Quốc tế (IOC) ngay từ năm 1928 đã cân nhắc tới vấn đề sử dụng PED trong thể thao bằng các cuộc hội thảo Y tế đươc tổ chức cùng với các kỳ thế vận hội. Tuy nhiên thể thao ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành một hình thức giải trí của toàn cầu. Các vận động viên dần trở thành những đại diện cho vình dự quốc gia và trở thành những ngôi sao quốc tế. Kéo theo đó là sự gia nhập của các giới chức truyền thông, kinh tế và cả chính trị. Đặc biệt quan điểm về tính an toàn của PED cũng gây ra chia rẽ lớn trong nội bộ giới bác sĩ, chuyên gia. Tại cuộc họp quan trọng vào năm 1948, IOC đã quyết định "giữ mình" khỏi các vấn đề về khoa học và y dược, đồng thời chuyển giao trách nhiệm cho Liên đoàn quốc tế về Dược phẩm Thể thao, một tổ chức ít tiếng nói. Thời kỉ tiếp theo chứng kiến sự bùng nổ của Doping không chỉ tại Olympic mà còn ở cả những sự kiện thể thao quốc gia nhỏ lẻ. Tiếp theo đó cùng với cái chết ngay trên đường đua của vận động viên xe đạp người Đan Mạch tại Olympic 1960, rất nhiều các tổ chức đã lên tiếng yêu cầu IOC triển khai việc kiểm soát Doping trong thể thao. Trong khi IOC vẫn "im lặng", giới chức Hội đồng châu Âu trở thành những người đầu tiên đặt ra những nghiên cứu chi tiết và điều tra dành cho PED và Doping trong thể thao. Thậm chí tại Tokyo, Hội nghị về Khoa học thể thao đã đi tới một nghị quyết về việc ngăn chặn Doping trong thi đấu thể thao. Nghị quyết này sau đó đã được Liên hiệp Đua Xe Đạp quốc tế chấp nhận và thực hành mà không cần tới sự tham gia của IOC. Nghị quyết quan trọng tại Tokyo này sau đó dẫn tới việc rất nhiều liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc tế đã chính thức vào cuộc trong việc kiểm soát PED/Doping vì tính an toàn và cả đạo đức thể thao sau đó. Cuối cùng quyết định việc thực thi kiểm tra Doping cho các sự kiện Olympic của IOC cũng được đưa ra vào kỳ họp tại Iran năm 1967. Một danh sách các chất cấm đã được liệt kê kèm theo đó IOC cũng lập ra Ủy Ban Đặc Biệt về Y Tế để tiến hành thực thi việc này. Lý do được IOC đưa ra cho việc cấm đoán PED/Doping nằm ở hai việc: Sự cạnh tranh không công bằng và những mối nguy hại về sức khỏe. Dù có rất nhiều tranh cãi về tính an toàn của PED/Doping, đến năm 1967, những nguy hại của việc sử dụng Doping trong thi đấu thể thao đã được chứng thực khi tại Tour De France năm đó, tay đua người Anh Tommy Simpson, đã ngục gã và chết ngay trên sóng truyền hình khi đang dẫn đầu toàn đường đua. Kết quả khám nghiệm tử thi của vận động viên này cho thấy việc sử dụng nhiều loại chất kích thích. Một năm sau đó, 1968, Yves Mottin, một vận động viên đua xe đạp có tiếng tăm khác, cũng đã chết vì nguyên nhân tương tự. 4. Sự đào thoát và bị bắt giữ của Steroid Có thể bạn chưa biết, Steroid và Sarm vốn là hai anh em sinh đôi. Thời buổi ban đầu được tạo ra, mục đích của các loại chất kích thích nhằm thay thế, bắt chước tác dụng của hormone Testosterone nhằm tăng cường khả năng phát triển cơ bắp, sức khỏe của xương khớp và đẩy mạnh việc phục hồi. Và dù năm 1968, IOC có ban hành việc cấm Doping, thực tế Anabolic Steroid đã hoàn toàn thoát khỏi những lệnh cấm này. Vào Olympic 1968 tổ chức tại Mexico, các vận động viên Đông Đức, Xô Viết vẫn "nghênh ngang" sử dụng steroid và đi xét nghiệm bình thường. Vì đơn giản vào thời điểm đó, danh sách các chất Doping bị cấm chưa có steroid và thực tế phương pháp kiểm tra cũng không thể phát hiện các chất này. Một điều khá hài hước là, bản thân Đông Đức trước đó lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc sử dụng Doping trong thể thao chỉ nhằm phát triển những loại steroid của riêng họ. Kết quả là vào kỳ Olympic năm 1968, Margitta Gummel, vận động viên đẩy tạ nữ của Đông Đức, người sử dụng T-bol, một loại steroid dạng viên uống, đã giành huy chương vàng và lập kỉ lục thế giới. Vào năm 1969, thậm chí một bài báo trên tạp chí nổi tiếng của Đông Đức đã thừa nhận rằng hầu hết các vận động viên ném đĩa, điền kinh, cử tạ của họ đều sử dụng steroid. Điều này cũng dẫn tới biệt danh "Cỗ máy Steroid" của Đông Đức. Tất nhiên, không thể không nhắc tới sự tham gia của bộ môn thể hình đang lên tại Mỹ vào lĩnh vực này từ những năm 1960. Có thể nói thể hình đã đẩy mạnh sự phát triển của PED vì đơn giản, bộ môn này tạo ra một thị trường lớn hơn, một nguồn thử nghiệm tốt hơn. Các vận động viên hàng đầu của cuộc thi Mr Olympia những năm 1965-1975 có thể thoải mái mua PED từ các hiệu thuốc, từ các bác sĩ và giá của các loại steroid lúc này cũng rất rẻ. 5. Bị cấm vì tham vọng của con người Theo thời gian, các vấn đề an toàn và tác dụng phụ "chết người" của steroid và các chất PED tương tự dần lộ rõ dưới con mắt của các chuyên gia. Khái niệm PED trở nên rõ ràng hơn dù vẫn còn rất nhiều tranh luận xung quanh các vấn đề tác dụng tác hại. Nhưng có một thực tế không thể che giấu được, các vận động viên ngày càng biết được nhiều hơn về tác dụng siêu việt của những chất này. Và điều nguy hại hơn ở đây, họ sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng để chiến thắng. Vào những năm 1970s, Gabe Mirkin, một cựu vận động viên marathon, một giảng viên và bác sĩ y khoa có tiếng của Mỹ đã thực hiện một khảo sát với các vận động viên rằng "Nếu tôi đưa cho anh một viên thuốc sẽ giúp anh vô địch Olympic nhưng anh sẽ phải chết trong một năm sau đó, anh sẽ uống nó chứ ?". Kết quả gây sốc của cuộc khảo sát này, theo Mirkin báo cáo, có đến một nửa số người được hỏi chấp nhận sẽ uống viên thuốc. Cuối cùng cho tới năm 1975, IOC chính thức liệt Anabolic Steroid và tất cả các chất PED vào danh sách các chất Doping bị cấm trong thể thao. Cũng từ đây, các vận động viên không chỉ bị kiểm tra tại các kì thế vận hội mà bản thân các liên đoàn thể thao cũng phải chịu trách nhiệm trong việc ngăn chặn sử dụng Doping trong thể thao. Khảo sát của Gabe Mirkin đã thu hút Bob Goldman, một chuyên gia thể thao khác, thực hiện một cuộc nghiên cứu dài hơi hơn từ năm 1982 - 1995. Trong khảo sát của mình với các vận động viên hàng đầu thế giới ở các môn đối kháng và sức mạnh, Goldman đưa ra một câu hỏi hấp dẫn hơn cho: "Nếu tôi có thể đưa cho bạn một loại thuốc có tác dụng kỳ diệu sẽ giúp bạn chiến thắng tất cả các cuộc thi từ Olympic tới Mr Universe trong năm năm tới, nhưng tác dụng phụ của nó sẽ giết chết bạn trong 5 năm sau đó, bạn sẽ dùng nó chứ ?". Với câu hỏi thực tế hơn, hấp dẫn hơn như vậy, Goldman đã phát hiện ra có tới hơn một nửa số vận động viên được hỏi đồng ý chấp nhận dùng thuốc. Kết quả này liên tục lặp lại trong nhiều năm tạo thành thành ngữ "Goldman Dilemma" (Tạm dịch: Lựa chọn lưỡng nan Goldman) nổi tiếng trong thể thao. Dù nhận nhiều nghi ngờ và phê bình về cách tiến hành nhưng cả hai cuộc khảo sát của Gabe Mirkin và Bob Goldman đều khẳng định một sự thực gây sốc với thế giới rằng: để giành được chiến thắng, các vận động viên sẵn sàng chấp nhận cái giá phải trả, dù cho đó có là cả tính mạng. Và tất nhiên trong thực tế, với rất nhiều sự dụ dỗ và "lừa phỉnh", cơ hội lựa chọn còn hấp dẫn hơn thế. Những điều trên đã dấy lên những nghi ngại và bản thân IOC và các liên đoàn thể thao cũng đều đồng tâm hiệp lực cho cuộc chiến chống Doping một cách mạnh mẽ hơn. Kéo theo đó là sự ra đời của WADA vào năm 1999, Tổ chức chống Doping Thế giới, PED/Doping hiện tại đã bị cấm ở hầu hết các liên đoàn, tổ chức thể thao liên quan tới Olympic.
Nỗi ám ảnh thiếu Testosterone ở người trẻ - Sự thật và cách khắc phục
Xem thêm: Tổng hợp các vấn đề về tăng testosterone tự nhiên Một trong những câu hỏi Vincent hay được hỏi nhất là "Anh ơi, em dùng T-booster loại A,B,C,X,Y,Z có được không ? Có tác dụng gì không ?". Dù bản thân đã viết rất nhiều về những hiểu lầm của việc tăng Testosterone nội sinh , hay các kiến thức làm rõ về Testosterone nhưng dường như nỗi ám ảnh thiếu Testosterone ở các bạn trẻ ngày một tăng cao. Trong bài viết này, Vincent sẽ lí giải nguyên do của nỗi sợ này, những sự thật về việc bạn có "low T" thật sự hay không và tất nhiên, những cách chống lại điều này một cách khoa học nhất. Bạn có thực sự bị thiếu Testosterone ? Nồng độ T-level ở một người nam giới trưởng thành bình thường trong khoảng 300-1,000 ng/dL. Tuy nhiên kết quả này còn phụ thuộc tùy vào từng phòng thí nghiệm, từng trường hợp, từng thời điểm kiểm tra và các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả kiểm tra. Ví dụ đơn giản, vào ngày bạn bị "đau bi" chẳng hạn, T-level của bạn sẽ rất thấp khi làm xét nghiệm máu. Thông thường nếu kiểm tra nhiều lần thấy lượng T-level của bạn dưới 200ng/dL, bạn sẽ bị đánh giá thiếu hụt Testosterone và có thể được các bác sĩ khuyên dùng các liệu pháp thay thế hooc-môn phù hợp qua đường tiêm, dán hay thậm chí nhỏ mũi. Tuy nhiên điều quan trọng là bạn cần phân biệt rõ ràng giữa thiếu hụt Testosterone do thiểu năng sinh dục và giảm Testosterone do nguyên nhân từ bên ngoài. Trong đó, thiếu hụt Testosterone do thiểu năng sinh dục chia làm 2 loại: thiểu năng sinh dục nguyên phát và thứ phát. Khi tinh hoàn của bạn bị teo bẩm sinh hoặc do dùng steroids, ung thư tinh hoàn, chấn thương vật lý thì dù bạn còn trẻ, T-level của bạn cũng thấp hơn bình thường. Thiểu năng sinh dục thứ phát thường gặp khi bạn già đi. Nó đến từ việc tinh hoàn không nhận đủ kích thích từ tuyến yên và não bộ để sản xuất đủ lượng Testosterone cần thiết. Thường sau khi 30 tuổi, nam giới sẽ bắt đầu có sự suy giảm này và ước tính cứ mỗi năm lượng Testosterone sẽ giảm đi 1%. Nhưng bạn cũng cần phân biệt rõ ràng rằng, sự giảm T-level theo tuổi tác này chỉ mang ý nghĩa khi so sánh với chính bản thân bạn lúc trẻ và thực ra không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe hay phong độ như bạn nghĩ. Việc giảm T-level theo tuổi sẽ dừng lại ở tuổi 75 và nếu một người đàn ông khỏe mạnh muốn có con, dù đã 100 tuổi, ông ta cũng có thể làm điều đó. Đây là điều rất hay bị hiểu nhầm khi Testosterone thường được nam tính hóa một cách quá đà trong khi hooc-môn này có ở cả hai giới. Tất nhiên một người già U35-40 vừa bị thiểu năng sinh dục bẩm sinh vừa bị gánh nặng của tuổi tác, lượng T-level của anh ta chắc chắn sẽ rất thấp. Việc giảm Testosterone ở đàn ông, nhất là các bạn trẻ đa phần đến từ các yếu tố bên ngoài và thực ra phần nhiều nằm ở tâm lý. Nguyên nhân gây ra nỗi sợ "Low-T" ? 3/4 trường hợp đi kiểm tra lượng Testosterone trong máu vì nghĩ mình bị thấp đều được các bác sĩ nội tiết trả về vì họ thực sự không có vấn đề gì về T-level cả. Thậm chí rất nhiều người còn có testosterone rất cao. Bạn nên nhớ rằng số người trẻ có vấn đề về T-level thấp là rất ít. Nguyên nhân to lớn nhất khiến các chàng trai trẻ tưởng lầm mình bị "low-T" đều đến từ truyền thông "lừa đảo". Đầu tiên, việc những nhãn hàng supplement, những bộ phim, những chiến dịch PR nước tăng lực, thời trang... cố tình trưng bày những hình mẫu lý tưởng (role model) và gắn liền với sự nam tính tối thượng với những khối cơ bắp đồ sộ và gân guốc chằng chịt cùng những khái niệm con đực đầu đàn, ngưỡi dẫn đầu (alpha-male) rồi gắn nó với testosterone đã dẫn tới sự hiểu lầm cực lớn và tạo ra nỗi sợ "low-T" ở các bạn trẻ. Bạn cần biết, 99% những người mẫu thể hình với cơ bắp khủng khiếp và lượng bodyfat dưới 10% đều nhờ đến steroids, PED, HGH... Còn thực tế, chưa chắc họ đã có T-level tự nhiên cao và khi vứt bỏ những ống tiêm, lượng Testosterone tự nhiên của họ rất thấp vì hệ thống sản xuất tự nhiên đã bị tắt đi. Thêm vào đó, Testosterone không phải là bị cáo cho phiên tòa định tội kích thước cơ bắp kém phát triển của bạn. Testosterone rất quan trọng với đàn ông nhưng thực chất vai trò của Testosterone tự nhiên với cơ bắp, sex và cả sự nam tính không lớn như được cố tình quảng bá. Một người đàn ông 70 tuổi dù có lượng test giảm dần qua mỗi năm vẫn khỏe mạnh và có thể sinh hoạt tình dục đầy đủ thậm chí mạnh mẽ hơn những người có cơ bắp vạm vỡ nhất. Còn với sự phát triển cơ bắp, ngoài Testosterone, bạn còn cần có sự trợ giúp từ các hooc-môn khác như GH, IGF-1 và với người đã hết tuổi trưởng thành, hơn 25 tuổi, hai hooc-môn sau quan trọng hơn khi lượng Testosterone đã đạt đỉnh và sẽ giảm dần. Và bạn nên biết rằng phần lớn testosterone được gắn liền với SHBG và chẳng có tác dụng gì ngoài việc giúp bạn ham muốn và duy trì nòi giống cả. Thêm vào đó là nghề nghiệp và dinh dưỡng, tập luyện và lifestyle. Bạn nhỏ bé khi so sánh với một người chọn công việc kiếm sống bằng cơ bắp không có nghĩa là bạn ít Testosterone hơn anh ta. Và thực tế dù bạn có ít hay nhiều Testosterone hơn anh ta, bạn cũng không thể trở thành anh ta được. Thứ hai, truyền thông của ngành công nghiệp fitness đổ tội tất cả cho Testosterone để bán hàng. Bạn bị bụng bự là do T-level thấp, bạn khó tăng cơ là do T-level thấp, bạn đẩy tạ yếu là do T-level thấp, bạn không ham muốn cũng là do T-level thấp nốt ! Tất cả mọi thứ ảnh hưởng tới sự nam tính của bạn đều do Testosterone thấp chứ không phải do bạn ăn quá nhiều, lười biếng, không tập luyện hay thậm chí "đi tu" một thời gian dài. Bạn càng nghĩ mình bị "low-T", bạn càng stress, khi bạn stress bạn sẽ thèm đồ ngọt hơn, dễ buông thả hơn dẫn tới bụng bự, rồi sẽ mất sức và thấy mình tập luyện yếu hơn, khó ngủ hơn dẫn tới mất sức, mất ham muốn hơn. Và nhiệm vụ của truyền thông từ các nhãn hàng cũng chỉ nhằm mục đích khiến bạn có sự lo lắng ấy và được nhân lên, nhắc đi nhắc lại hàng ngày thôi. Khi đó bạn sẽ "low-T" thật và lún sâu hơn vào nỗi sợ này và tìm đến các giải pháp từ các Đấng Supplement. Hình thể hay sức mạnh còn đến từ bộ gene di truyền rất phức tạp của bạn chứ không chỉ đến từ lượng testosterone sáng tăng chiều giảm. Ngay cả việc xuất tinh sớm, hiện nay cũng còn chưa có phương pháp trị dứt nhưng vẫn đang được quảng cáo ám chỉ do "low-T" rầm rộ trên các phương tiện truyền thông hàng ngày đó thôi. Những thứ có thể ảnh hưởng tới T-level của bạn Testosterone lên xuống thất thường đúng như tâm trạng của bạn. Thực ra tâm trạng không ổn định cũng chính là một biểu hiện của việc giảm T-level. Như đã nói ở trên, để tinh hoàn có thể sản xuất ra testosterone cần tới các kích thích từ não bộ. Nhưng tinh thần lại gắn liền với cơ thể và cơ thể lại chịu sự ảnh hưởng từ dinh dưỡng và sinh hoạt ngày qua ngày. Có rất nhiều nguyên nhân có thể làm giảm lượng testosterone của người trẻ, trong đó có hai nguyên nhân nổi trội nhất là stress và lifestyle. 1. Stress từ cuộc sống hàng ngày Từ thời xa xưa, còn người đã coi việc phát triển bản thân toàn diện gắn liện với việc phát triển mỗi cá nhân mạnh mẽ lên ở mối liên kết giữa cơ thể - tinh thần và ý chí. Nhưng ngày nay, tam giác "mind-body-spirit" đặt trong một môi trường sống hiện đại đang ngày các có nhiều tác nhân có hại cho tinh thần. Khác với tổ tiên của chúng ta trở lên ngày càng mạnh mẽ hơn nhờ những cuộc đi săn, nhờ ngọn lửa chiến đấu trước khó khăn, môi trường xung quanh hiện tạo ra nhiều áp lực ngày càng có hại hơn cho tinh thần. Ngoại hình, sự thành công vật chất, áp lực bị so sánh với những tiêu chuẩn, hình mẫu, sự kì thị...những thứ tiêu cực đã có từ rất lâu nhưng hiện nay đang được trưng diện và hấp thụ một cách chủ động bởi hầu hết người trẻ. Áp lực cuộc sống thực sự ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến lượng T-level của bạn. Khi cortisol tăng cao và trong thời gian dài, lượng Testosterone của bạn sẽ bị giảm. Stress bao gồm cả nỗi sợ "low-T" vô lý ở trên.
2. Lifestyle: Lối sống không lành mạnh, lười biếng, ăn uống cẩu thả, lạm dụng chất cồn, ngủ không đủ giấc là kẻ thù của sức khỏe và lượng Testosterone vốn thất thường của bạn. Như một vòng luẩn quẩn, khi bạn bị stress, bạn sẽ dễ buông thả hơn và khi đó bạn lại càng trở lên tệ hơn, rồi bạn sẽ lại càng stress hơn. Và cũng thêm một vòng luẩn quẩn khác khi bạn không có lối sống lành mạnh, bạn sẽ bị yếu kém về mặt tinh thần và thể chất nên càng dễ sống không lành mạnh hơn. Nhất là khi bạn bị bủa vây bởi quảng cáo, media và truyền thông xã hội. Ngành công nghiệp fitness và ngành công nghiệp thức ăn nhanh hay ngành công nghiệp nước giải khát, bia rượu thoạt nhìn có vẻ sẽ là đối thủ sống còn của nhau nhưng không phải. Tất cả đều bắt tay với truyền thông để tập trung vào việc khiến bạn mua sản phẩm nhiều hơn. Bia rượu mang tới thành công bạn hữu, thức ăn nhanh mang tới niềm vui và sự khoái lạc, nước giải khát giúp bạn thành siêu nhân, còn nếu bạn dùng mấy thứ đó và dần trở lên yếu đuối và có cảm giác "low-T", đó là lúc chúng tôi đưa cho bạn những lọ thực phẩm bổ sung. Cách khắc phục "low-T" Khi đã hiểu rõ sự thực về "low-T" bạn sẽ biết cách khắc phục. Nếu bạn bị "low-T" bẩm sinh tới mức ảnh hưởng các chức năng trong cơ thể hay quá còi cọc, kém phát triển, bạn hãy tìm tới bác sĩ có chuyên môn về nội tiết tố. TRT (Testosterone Replacement Therapy) là giải pháp cho bạn. Nhưng nên nhớ rằng TRT không phải việc dùng steroids để tăng cơ bắp của các vận động viên thể hình. Steroids có thể giúp cho một người phụ nữ có cơ bắp khủng khiếp hơn hầu hết đàn ông trên thế giới nhưng TRT có nhiệm vụ khiến bạn có lượng Testosterone bình thường và hạn chế các tác dụng phụ tới sức khỏe và kể cả sinh dục hay tuổi thọ của bạn. Còn với các trường hợp "low-T" do ám ảnh và căng thẳng đến từ bên ngoài, điều chỉnh lifestyle là một biện pháp hữu hiệu nhất. Theo đuổi một bộ môn thể thao, một chương trình tập luyện khoa học với kiến thức đầy đủ về tập luyện, dinh dưỡng, nghỉ ngơi, lifestyle sẽ giúp bạn sung sức và khỏe mạnh. Việc thay đổi lifestyle này cần sự "giác ngộ" và sức mạnh của tinh thần. Tất nhiên những điều này không đến từ các các lời hô hào hay tuyên ngôn mà đến từ tri thức. Như một gã siêu nhân hói đầu do tập luyện mỗi ngày đã nói: "Con người là loài mạnh mẽ nhất vì có thể thay đổi bản thân !". Hãy nghĩ tới những điều tích cực và khai phá tiểm năng vô hạn của bản thân. Sự thay đổi đến từ bên trong bạn chứ không đến từ những viên con nhộng ! Thậm chí ngay sau khi đọc bài viết này, bạn đã hiểu rõ về "low-T" và biết rằng nỗi sợ của mình chỉ là sự tiêu cực nhảm nhí bị gieo vào đầu, T-level của bạn chắc chắn tăng lên.