Dinh dưỡng cho trẻ em và thanh thiếu niên: Nền tảng cho huấn luyện thể chất tối ưu
Cơ thể con người thay đổi đáng kể theo thời gian và thức ăn chính là nhiên liệu cho những thay đổi đó. Những niềm tin và phong tục trong giai đoạn đầu đời được thực hiện với hy vọng xây dựng một nền tảng vững chắc và thiết lập sức khỏe suốt đời. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều cần những chất dinh dưỡng cơ bản giống nhau—axit amin thiết yếu, carbohydrate, axit béo thiết yếu, cùng 28 loại vitamin và khoáng chất—để duy trì sự sống và sức khỏe. Tuy nhiên, lượng chất dinh dưỡng cần thiết lại khác nhau. Trong suốt vòng đời của con người, cơ thể liên tục thay đổi và trải qua các giai đoạn khác nhau được gọi là các giai đoạn. Các giai đoạn chính của vòng đời con người được xác định như sau: Thai kỳ. Sự phát triển của hợp tử thành phôi và sau đó thành bào thai để chuẩn bị cho quá trình sinh nở. Trẻ sơ sinh. Phần đầu tiên của tuổi thơ. Đó là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến ngày sinh nhật đầu tiên. Thời thơ ấu và những năm chập chững biết đi. Xảy ra ở độ tuổi từ một đến ba Thời thiếu nhi. Giai đoạn từ trẻ em đến khi bắt đầu dậy thì (từ 4-10 tuổi). Có thể được gọi là thiếu nhi (bao gồm thiếu niên và nhi đồng). Bắt đầu tuổi dậy thì. Có thể xảy ra từ chín đến mười bốn tuổi, đó là thời điểm bắt đầu của tuổi thiếu niên. Tuổi vị thành niên. Giai đoạn diễn ra ở độ tuổi từ mười bốn đến mười tám. * Trưởng thành. Khoảng thời gian từ cuối tuổi thiếu niên đến cuối đời và bắt đầu từ tuổi mười tám ở Mỹ và mười chín tuổi ở một số nước khác. Trung niên. Khoảng thời gian trưởng thành kéo dài từ bốn mươi lăm tuổi đến sáu mươi tư tuổi. Cao tuổi, hoặc già. Kéo dài từ sáu mươi lăm tuổi cho đến hết cuộc đời. * Việc chia nhóm độ tuổi có sự khác biệt về ngôn ngữ và quan niệm ở mỗi nước, khu vực dễ gây nhầm lẫn. Theo quan niệm Việt Nam, 4-9 tuổi là nhi đồng, 10-15 tuổi là thiếu niên. Còn quy định pháp luật ở VN, dưới 16 tuổi được tính chung là trẻ em. Còn Liên Hiệp Quốc quy định người dưới 18 tuổi là chưa thành niên và sau 18 tuổi là thành niên. Phần kiến thức này chủ yếu đưa ra các định hướng căn bản trong việc tiếp cận dinh dưỡng dành cho đối tượng trẻ em đến thanh thiếu niên khỏe mạnh. Những đối tượng đặc biệt cần theo dõi, chăm sóc riêng cùng bác sĩ và chuyên gia nhi khoa. Một số thay đổi sinh lý và cảm xúc quan trọng diễn ra trong giai đoạn cuộc sống từ thời thơ ấu đến tuổi thiếu niên và vị thành niên. Thái độ và nhận thức của trẻ em về thực phẩm sẽ dần sâu sắc hơn. Chúng không chỉ bắt đầu tiếp thu các tín hiệu về sở thích thực phẩm từ các thành viên trong gia đình mà còn từ bạn bè và nền văn hóa rộng lớn hơn. Trong giai đoạn phát triển của trẻ nhỏ chúng ta có thể xây dựng những kết nối trẻ em với đất đai, nguồn nước và thực phẩm địa phương. Điều này có thể giúp giải quyết các vấn đề sức khỏe của trẻ em bằng cách nuôi dưỡng thói quen ăn uống lành mạnh bằng cách dạy và tạo sự thu hút với thiếu nhi về các loại thực phẩm địa phương và truyền thống. Cha mẹ cũng ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn dinh dưỡng của con mình. Thời gian này trong cuộc đời của trẻ tạo cơ hội cho cha mẹ và những người chăm sóc khác củng cố thói quen ăn uống tốt và đưa các loại thực phẩm mới vào chế độ ăn uống, đồng thời vẫn lưu tâm đến sở thích của trẻ. Hiện tại ở các thành phố lớn đã có trường dành cho trẻ em giai đoạn sau 3 tuổi nhưng tầm quan trọng của cha mẹ và người thân chăm sóc là không thể bỏ qua. Cha mẹ cũng nên đóng vai trò là hình mẫu cho con cái của mình, những đứa trẻ thường bắt chước hành vi và thói quen ăn uống của cha mẹ. Cha mẹ và người thân phải tiếp tục giúp con cái trong độ tuổi đi học và thanh thiếu niên để thiết lập thói quen ăn uống lành mạnh và thái độ đối với thực phẩm. Vai trò chính của họ là mang nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khỏe vào nhà, để con cái họ có thể đưa ra những lựa chọn tốt nhất. Về dinh dưỡng thai kỳ, xem thêm bài blog tại đây . Bài viết này sẽ tập trung vào dinh dưỡng từ giai đoạn sinh ra đến lúc trưởng thành. Trẻ sơ sinh Nếu trẻ sinh không biến chứng và trẻ tỉnh táo và khỏe mạnh, trẻ sơ sinh có thể được mang đến bên mẹ để cho bú ngay. Việc này cũng giúp trẻ quen với việc bú mẹ sau đó và kích thích tuyến sữa. Nôn ọe ra chất nhầy sau khi bú rất thường gặp (vì cơ trơn dạ dày & thực quản còn lỏng lẻo) nhưng sẽ giảm bớt trong vòng 48 giờ. Nếu trẻ ọc ra chất nhầy hoặc nôn kéo dài quá 48 giờ hoặc nếu nôn dịch mật, cần phải đánh giá đầy đủ về đường tiêu hóa và đường hô hấp trên để phát hiện bất thường tiêu hóa bẩm sinh. Nhu cầu nước và calo hàng ngày thay đổi theo độ tuổi. Như trẻ sơ sinh dưới 6 tháng là 110-120kcal/1kg trọng lượng cơ thể và trẻ 1 tuổi trở đi là 95-100kcal/kg cân nặng. Các nhu cầu tương đối về protein và năng lượng (g hoặc kcal/kg trọng lượng cơ thể) giảm dần từ cuối giai đoạn nhũ nhi cho đến tuổi thiếu niên (xem bảng Khuyến nghị về chế độ ăn uống tham khảo cho một số chất dinh dưỡng đa lượng, Ủy ban Thực phẩm và Dinh dưỡng, Viện Y học của Học viện Quốc gia), nhưng nhu cầu tuyệt đối tăng lên. Trẻ sơ sinh nên được cho ăn theo nhu cầu, thường là khoảng 8 đến 12 lần/ngày. Lượng ăn vào trung bình mỗi lần cho ăn trong vài ngày đầu có thể chỉ từ 15 đến 30 mL. Sau 48 giờ, các dấu hiệu cho thấy trẻ bú đủ bao gồm trẻ có vẻ hài lòng sau mỗi lần bú, có 6 đến 8 thay tã mỗi ngày và đại tiện đều đặn, ngủ ngon, tỉnh táo khi thức và tăng cân. Mặc dù có sự khác biệt nhỏ trong lượng thức ăn hàng ngày là thường gặp, và cha mẹ thường lo lắng quá mức, chỉ cần đảm bảo theo hướng dẫn trừ khi có dấu hiệu bệnh tật hoặc thay đổi về chỉ số tăng trưởng, đặc biệt là cân nặng. Cân nặng sau khi sinh ra của trẻ có thể giảm sút. Nhưng nếu mất trên 5 đến 7% trọng lượng khi sinh trong tuần đầu tiên cho thấy trẻ bị thiếu dinh dưỡng. Cần phải lấy lại cân nặng lúc sinh sau 2 tuần ở trẻ bú mẹ (sớm hơn ở trẻ bú sữa công thức), và dự kiến sẽ tăng khoảng 20 đến 30 g/ngày sau đó trong vài tháng đầu tiên. Trẻ nhũ nhi nên tăng gấp đôi cân nặng sau khi sinh khoảng sau 5 tháng. Trong 6 tháng đầu tiên, sữa mẹ có thể cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng. Chúng ta cũng có thể bổ sung cho trẻ bằng sữa công thức với các trường hợp thiếu hoặc không có sữa mẹ. Trong trường hợp người mẹ thiếu sữa, sữa của một người mẹ khác cũng là một lựa chọn tốt nhất. Các nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ mang những đặc tính thành phần chỉ có ở người mà không thể thay thế hay bắt chước hoàn hảo được. Sữa mẹ giúp xây dựng khả năng miễn dịch của trẻ, giúp ngăn ngừa hầu hết các bất thường có thể xảy ra trong tương lai như thiếu chất, dậy thì sớm…( Link ) Cũng lưu ý rằng các tuyên bố về tối ưu sức khỏe, lợi ích về phát triển từ sữa công thức có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ ( Link ) ( Link ). Cha mẹ nên cẩn trọng và có ý thức rằng, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhỏ nếu không muốn nói là không thể thay thế ( Link ). Thời thơ ấu Thời ấu thơ bao gồm thời kỳ sơ sinh, nhũ nhi (còn bú mẹ) và những năm chập chững biết đi, thường từ khi mới sinh đến ba tuổi. Từ 6-8 tháng tuổi, tiếp tục cho bé bú mẹ hoặc sữa thay thế từ 3-5 lần một ngày. Bé sẽ bắt đầu bú ít sữa mẹ hoặc sữa thay thế khi mà thức ăn đặc trở thành nguồn dinh dưỡng chính. Thời điểm này, bạn có thể bắt đầu cho trẻ ăn các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật khác: rau (khoai tây, đậu xanh, cà rốt và đậu Hà Lan) đều là những lựa chọn tốt, chúng nên được nấu chín kỹ và nghiền, trái cây (chẳng hạn như chuối nghiền, bơ, đào, hoặc táo). Từ 8-12 tháng tuổi, nên tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ hoặc sữa thay thế 3-4 lần/ ngày. Ở độ tuổi này, cần bổ sung thêm các loại thịt băm vào khẩu phần ăn của trẻ. Khi trẻ được 1 tuổi, nên tăng dần lượng thức ăn dặm, bé sẽ bú hoặc uống ít sữa hơn. Lúc này bé cần được cung cấp nhiều chất dinh dưỡng từ thịt, trái cây, rau, bánh mì và hạt ngũ cốc và nhóm sữa, đặt biệt sữa nguyên kem. Việc này sẽ giúp đảm bảo đầy đủ lượng vitamin và khoáng chất cho trẻ. Tuy nhiên, sữa mẹ hoặc sữa công thức vẫn là nguồn dinh dưỡng chính cho bé trong suốt năm đầu đời, do đó ở thời điểm này, sữa vẫn nên chiếm khoảng 70% khẩu phần ăn. Cần lưu ý rằng trong thời gian này trẻ bắt đầu học cách bò và đi nên sẽ ăn ít thức ăn trong 1 bữa ăn, nhưng sẽ ăn thường xuyên hơn (4-6 lần) trong cả ngày, vì vậy, bố mẹ nên thêm những cử ăn nhẹ ngoài khẩu phần cho trẻ. Sau 24 tháng, hầu hết các bé đã mọc đủ răng và cứng chắc hơn giai đoạn 1 tuổi. Lúc này bé không còn ăn cháo, bột nữa mà có thể ăn những thức ăn giống người lớn, bố mẹ nên cho trẻ ăn cơm cùng gia đình để tạo thói quen tốt trong ăn uống, các món ăn dành cho bé có thể là cháo đặc, súp đặc, cơm,..., đồng thời vẫn cho trẻ uống sữa ít nhất 1 lần/ngày. Bên cạnh 3 bữa ăn chính cùng gia đình, bạn có thể cho trẻ ăn thêm 2 bữa phụ vào giữa buổi sáng và giữa buổi chiều, bữa phụ giúp trẻ không bị đói, ăn uống ngon miệng hơn, trong bữa phụ này, bạn nên cho trẻ ăn các loại trái cây, sữa, sữa chua để hỗ trợ hệ tiêu hóa. Nhu cầu dinh dưỡng thay đổi khi trẻ rời khỏi giai đoạn chập chững biết đi. Từ 03 đến 06 tuổi, trẻ em đến độ tuổi đi học phát triển đều đặn, nhưng sẽ chậm hơn so thời kỳ sơ sinh và mới biết đi. Trẻ cũng trải qua quá trình rụng răng sữa và mọc răng vĩnh viễn, thường bắt đầu từ sáu hoặc bảy tuổi. Khi răng mới mọc, nhiều trẻ bị lệch khớp cắn hoặc răng mọc lệch, có thể ảnh hưởng đến khả năng nhai thức ăn. Những thay đổi khác ảnh hưởng đến dinh dưỡng bao gồm ảnh hưởng của bạn bè đến lựa chọn chế độ ăn uống và các loại thực phẩm do trường học và các chương trình sau giờ học cung cấp, có thể chiếm một phần đáng kể trong chế độ ăn của trẻ. Các vấn đề liên quan đến thực phẩm đối với trẻ nhỏ có thể bao gồm sâu răng, nhạy cảm với thực phẩm và suy dinh dưỡng. Ngoài ra, tăng cân quá mức khi còn nhỏ có thể dẫn đến béo phì khi đến tuổi thiếu niên và trưởng thành. Ở giai đoạn này của cuộc đời, chế độ ăn uống lành mạnh thúc đẩy sự phát triển về thể chất và tinh thần, đồng thời giúp duy trì sức khỏe và thể chất. Trẻ em trong độ tuổi đi học có sự tăng trưởng đều đặn, nhất quán, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 5–7 cm chiều cao và 2–3 kg cân nặng mỗi năm. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của các chi nhanh hơn so với thân, dẫn đến tỷ lệ giống người lớn hơn. Sự phát triển của xương dài kéo căng các cơ và dây chằng, dẫn đến nhiều trẻ em bị "đau do lớn" dẫn đến khó chịu, đặc biệt là vào ban đêm. Nhu cầu năng lượng của trẻ em thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển và mức độ hoạt động thể chất của trẻ. Nhu cầu năng lượng cũng thay đổi tùy theo giới tính. Bé trai thường cần lượng calories nhiều hơn bé gái. Ngoài ra, lượng khuyến nghị về các chất dinh dưỡng đa lượng và hầu hết các chất dinh dưỡng vi lượng đều cao hơn so với kích thước cơ thể, so với nhu cầu dinh dưỡng ở tuổi trưởng thành. Do đó, trẻ em nên được cung cấp thực phẩm giàu dinh dưỡng vào bữa ăn chính và bữa ăn nhẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là không nên cho trẻ ăn quá nhiều, vì điều này có thể dẫn đến tình trạng béo phì ở trẻ em. Theo điều tra dân số của Bộ Y Tế năm 2020, 19% trẻ em thành thị tại VN đang ở trong tình trạng thừa cân béo phì. ( Link )Trong đó, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn). Đặc biệt tại TPHCM, tỉ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở học sinh tiểu học lên tới 56,9%. ( Link ) Chất dinh dưỡng đa lượng Đối với carbohydrate, phạm vi phân phối chấp nhận được (AMDR) là 40–60 phần trăm lượng calo hàng ngày. Carbohydrate giàu chất xơ nên chiếm phần lớn lượng hấp thụ. AMDR đối với protein là 10–30 phần trăm lượng calo hàng ngày (30–90 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Trẻ em sau giai đoạn cai sữa nên nhận được chất xơ từ các loại thực vật, ngũ cốc. Trẻ em có nhu cầu cao về protein để hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cơ bắp. Hàm lượng protein tối thiểu là 1,7 g/100 kcal và hàm lượng protein tối đa là 3,4g/100 kcal trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) Cần có mức axit béo thiết yếu cao để hỗ trợ tăng trưởng (mặc dù không cao như ở trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi). Do đó, AMDR đối với chất béo là 25–35 phần trăm lượng calo hàng ngày (33–47 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Hàm lượng chất béo tối thiểu là 4,4 g/100 kcal (40% tổng năng lượng) và hàm lượng chất béo tối đa là 6,4 g/100 kcal (57,2% tổng năng lượng) trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) ( Link ) Vi chất dinh dưỡng Nhu cầu vi chất dinh dưỡng cần được đáp ứng trước tiên bằng thực phẩm. Cha mẹ và người chăm sóc nên lựa chọn nhiều loại thực phẩm từ mỗi nhóm thực phẩm để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng. Vì trẻ em lớn nhanh nên cần những thực phẩm giàu chất sắt, chẳng hạn như thịt nạc, đậu, cá, gia cầm và ngũ cốc giàu sắt. Fluoride đầy đủ rất quan trọng để hỗ trợ răng chắc khỏe. Một trong những nhu cầu vi chất dinh dưỡng quan trọng nhất trong thời thơ ấu là lượng canxi và vitamin D đầy đủ. Cả hai đều cần thiết để xây dựng xương chắc khỏe. Trẻ em không tiêu thụ đủ vitamin D nên được bổ sung 10 microgam (400 IU) mỗi ngày. Vitamin D có nhiều trong các loại nấm (trồng ngoài trời), dầu gan cá, cá biển, lòng đỏ trứng và các thực phẩm tăng cường. Các loại sữa công thức, sữa bò chính là nguồn thực phẩm bổ sung canxi tốt cho trẻ. Lưu ý cần tránh dùng các loại có đường bổ sung. Các khuyến nghị là giống nhau đối với bé trai và bé gái. Khi chúng ta tiến triển qua các giai đoạn khác nhau của vòng đời con người, sẽ có một số khác biệt giữa nam và nữ về nhu cầu vi chất dinh dưỡng. Tham khảo hướng dẫn nuôi dưỡng trẻ em sơ sinh, trẻ mầm non theo khuyến nghị của Viện Dinh Dưỡng, Bộ Y Tế năm 2016 tại đây và tại đây . Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn thức ăn của trẻ Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến thói quen ăn uống và thái độ của trẻ đối với thực phẩm. Môi trường gia đình, xu hướng xã hội, sở thích về khẩu vị và thông điệp hình ảnh trên các phương tiện truyền thông đều tác động đến cảm xúc mà trẻ phát triển liên quan đến chế độ ăn uống của mình. Quảng cáo trên truyền hình có thể dụ dỗ trẻ tiêu thụ các sản phẩm có đường, thức ăn nhanh nhiều chất béo, dư thừa calo, chất béo công nghiệp và nhiều thành phần tinh chế. Việc tiêu thụ các sản phẩm này có thể gây ra tình trạng thiếu chất dinh dưỡng và cả thừa chất dinh dưỡng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ em. Các nghiên cứu đã cho thấy những mối quan ngại với tình trạng này tại các nước có thu nhập thấp và trung bình ( Link ). Bên cạnh đó chúng có thể hình thành những thói quen dinh dưỡng không tốt sau này do ký ức về đồ ăn của trẻ. Do đó, điều quan trọng là cha mẹ và người chăm sóc phải hướng trẻ đến những lựa chọn lành mạnh. Một cách để khuyến khích trẻ ăn thực phẩm lành mạnh là làm cho không khí bữa ăn trở nên vui vẻ và thú vị. Cha mẹ nên cho trẻ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực phẩm, ví dụ như chọn các mặt hàng khi đi mua sắm hoặc giúp chuẩn bị một phần bữa ăn, chẳng hạn như làm salad. Vào thời điểm này, cha mẹ cũng có thể giáo dục trẻ về an toàn trong bếp. Cha mẹ nên cung cấp các món tráng miệng bổ dưỡng, chẳng hạn như trái cây tươi, thay vì bánh ngọt, đồ ăn nhanh và kem chứa nhiều calo. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy trẻ em ăn cơm cùng gia đình thường xuyên sẽ tiêu thụ nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn. Trẻ em thường dễ chán với những món ăn lặp lại, kể cả việc chế biến hay màu sắc trình bày và chúng cũng thường khó ăn rau xanh, củ quả do trẻ rất nhạy về vị giác. Cách khắc phục là thay đổi món, cách chế biến, cách sắp xếp, trình bày, (như cắt rau củ thành ngôi sao, dùng xiên thịt băm…). Rau củ quả có thể được nghiền ép thành nước ép, sinh tố pha thêm mật ong để nhiều màu sắc và hấp dẫn về mùi vị sẽ thu hút trẻ hơn. Thói quen cho trẻ sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại/ipad để dỗ trẻ ăn có thể tạo ra những hệ lụy không tốt cho não bộ của trẻ. Ngoài ra, việc sử dụng màn hình quá mức có tác động bất lợi đến sự phát triển về mặt xã hội và cảm xúc, bao gồm tăng khả năng béo phì, rối loạn giấc ngủ và các tình trạng sức khỏe tâm thần bao gồm trầm cảm và lo âu. Nó có thể cản trở khả năng diễn giải cảm xúc, thúc đẩy hành vi hung hăng và gây hại cho sức khỏe tâm lý nói chung. ( Link ) Cha mẹ và người thân chăm sóc có thể thay thế hành vi này bằng các hoạt động vui chơi tương tác hoặc đi dạo ngoài trời. Cũng không nên “cưỡng ép” bắt trẻ ăn theo kiểu nhồi nhét cho đủ và cho đúng giờ khi trẻ kháng cự hoặc không muốn ăn. Chăm sóc trẻ em đòi hỏi tìm hiểu về tâm lý và tập tính của trẻ để từ đó xây dựng lên những thói quen tốt và tự động. Trẻ em và suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng là vấn đề mà nhiều trẻ em phải đối mặt, không chỉ ở các quốc gia nghèo mà còn cả các quốc gia đang phát triển và phát triển. Ngay cả với sự giàu có về lương thực ở Bắc Mỹ, nhiều trẻ em vẫn lớn lên trong tình trạng suy dinh dưỡng hoặc thậm chí là đói. Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ phân loại các hộ gia đình thành các nhóm sau: Đảm bảo an ninh lương thực Thiếu an ninh lương thực nhưng không đói Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói vừa phải Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói nghiêm trọng Tại Hoa Kỳ, khoảng 20 phần trăm hộ gia đình có trẻ em không đảm bảo về lương thực ở một mức độ nào đó. Điều này có nghĩa là trẻ em đôi khi không được tiếp cận với các bữa ăn đầy đủ và bổ dưỡng. Lớn lên trong một hộ gia đình không đảm bảo an ninh lương thực có thể dẫn đến một số vấn đề. Thiếu sắt, kẽm, protein và vitamin A có thể dẫn đến còi cọc, bệnh tật và hạn chế phát triển. Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng cho thấy, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) đang giảm dần, từ 29,3% năm 2010 giảm xuống dưới 18,9% vào năm 2022. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%. ( Link ) Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi chênh lệch mạnh giữa các vùng miền. Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ dưới 5 tuổi vùng miền núi phía Bắc là cao nhất (37,4%), sau đó là Tây nguyên (28,8%). Tỷ lệ thể thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số (31,4%) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người Kinh (15,0%). Tỷ lệ trẻ em là người dân tộc thiểu số nhẹ cân cũng lớn hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ em là người Kinh. Trong trường hợp thiếu an ninh lương thực, việc cung cấp đầy đủ lượng calories hàng ngày nên được chú trọng ưu tiên hàng đầu. Đi kèm với nó là cung cấp đủ thịt cá trứng để hỗ trợ quá trình lớn và phát triển đầy đủ của trẻ. Dị ứng thực phẩm và không dung nạp thực phẩm Sự phát triển của dị ứng thực phẩm là mối quan tâm trong những năm tháng chập chững biết đi. Đây vẫn là vấn đề đối với trẻ em trong độ tuổi đi học. Một số loại thực phẩm gây dị ứng phổ biến nhất bao gồm đậu phộng, sữa bò tươi, đậu nành, lúa mì và động vật có vỏ (nghêu sò ốc hến hải sản tôm cua). Dị ứng xảy ra khi một loại protein trong thực phẩm kích hoạt phản ứng miễn dịch, dẫn đến giải phóng kháng thể, histamine và các chất bảo vệ khác tấn công các vật thể lạ. Các triệu chứng có thể bao gồm ngứa da, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy và buồn nôn. Các triệu chứng thường phát triển trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi tiêu thụ chất gây dị ứng thực phẩm. Trẻ em có thể vượt qua dị ứng thực phẩm, đặc biệt là dị ứng với lúa mì, sữa, trứng hoặc đậu nành. Phản vệ là phản ứng đe dọa tính mạng dẫn đến khó thở, sưng miệng và cổ họng, giảm huyết áp, sốc hoặc thậm chí tử vong. Sữa bò tươi, lúa mì, đậu nành, cá, động vật có vỏ, đậu phộng và các loại hạt cây là những loại có khả năng gây ra loại phản ứng này nhiều nhất. Một liều thuốc Epinephrine thường được tiêm qua “bút” để điều trị cho người bị sốc phản vệ. Một số trẻ em bị chứng không dung nạp thức ăn, không liên quan đến phản ứng miễn dịch. Chứng không dung nạp thức ăn được biểu hiện bằng các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi tiêu thụ một số loại thực phẩm nhất định. Chứng không dung nạp lactose, mặc dù hiếm gặp ở trẻ rất nhỏ, là một ví dụ. Trẻ em mắc chứng bệnh này sẽ có phản ứng bất lợi với lactose trong các sản phẩm từ sữa. Đây là kết quả của tình trạng ruột non không sản xuất đủ enzyme lactase. Các triệu chứng của chứng không dung nạp lactose thường ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và có thể bao gồm đầy hơi, đau bụng, đầy hơi, buồn nôn và tiêu chảy. Chứng không dung nạp lactose được kiểm soát tốt nhất bằng cách thay đổi chế độ ăn uống và tránh bất kỳ loại thực phẩm nào gây ra phản ứng. Adolescence/Vị thành niên Sự khởi đầu của tuổi dậy thì là sự khởi đầu của tuổi vị thành niên và là cầu nối giữa những năm thơ ấu và tuổi trưởng thành. Theo khuyến nghị của DRI, tuổi vị thành niên được chia thành hai nhóm tuổi: 9 đến 13 tuổi và 14 đến 18 tuổi. Một số thay đổi sinh lý quan trọng diễn ra trong giai đoạn này bao gồm sự phát triển của các đặc điểm giới tính chính: các cơ quan sinh sản, cùng với sự khởi đầu của kinh nguyệt ở phụ nữ. Giai đoạn cuộc đời này cũng được đặc trưng bởi sự xuất hiện của các đặc điểm giới tính thứ cấp, chẳng hạn như sự phát triển của lông mặt và cơ thể, sự phát triển của ngực ở trẻ em gái và giọng nói trầm hơn ở trẻ em trai. Những thay đổi thể chất khác bao gồm sự phát triển nhanh chóng và những thay đổi về tỷ lệ cơ thể. Tất cả những thay đổi này, cũng như những điều chỉnh về tinh thần và cảm xúc đi kèm, cần được hỗ trợ bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý. Bắt đầu tuổi dậy thì Tuy không có một khẳng định nhất quán, dậy thì thường bắt đầu ở 9 tuổi và bé gái thường dậy thì sớm hơn so với bé trai. Giai đoạn phát triển thể chất này được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên liên quan đến việc tăng chiều cao từ 20 đến 25 phần trăm. Về mặt tăng trưởng nhanh, tuổi dậy thì xếp thứ hai sau giai đoạn trước khi sinh khi các xương dài của chúng ta phát triển đến kích thước cuối cùng của người trưởng thành. Bé gái sẽ cao hơn từ 5–20 cm, trong khi bé trai cao hơn 10–30 cm. Giai đoạn thứ hai liên quan đến việc tăng thể khối cơ thể, liên quan đến sự phát triển của xương, cơ và mô mỡ. Cũng trong giai đoạn dậy thì, hormone sinh dục kích hoạt sự phát triển của các cơ quan sinh sản và các đặc điểm sinh dục thứ cấp, chẳng hạn như lông mu. Bé gái cũng phát triển những "đường cong", trong khi bé trai trở nên cao lớn hơn và cơ bắp hơn. Dậy thì sớm Dậy thì sớm là tình trạng phát triển các đặc điểm giới tính thứ phát (như có lông mu, kinh nguyệt sớm) trước 8 tuổi ở bé gái và 9 tuổi ở bé trai. Tình trạng này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, cả về thể chất lẫn tâm lý, tinh thần. Trẻ sẽ không đạt được chiều cao, độ lớn cơ thể và sự phát triển toàn diện. ( Link ) Dữ liệu nghiên cứu trong về tình trạng này cho thấy mức độ gặp phải ở trẻ khoảng 1:5000 bé nữ và 1:10000 bé trai. Hiện nay, tình trạng dậy thì sớm đang trở thành một mối lưu tâm.