
Dinh dưỡng cho trẻ em và thanh thiếu niên: Nền tảng cho huấn luyện thể chất tối ưu
Cơ thể con người thay đổi đáng kể theo thời gian và thức ăn chính là nhiên liệu cho những thay đổi đó. Những niềm tin và phong tục trong giai đoạn đầu đời được thực hiện với hy vọng xây dựng một nền tảng vững chắc và thiết lập sức khỏe suốt đời. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều cần những chất dinh dưỡng cơ bản giống nhau—axit amin thiết yếu, carbohydrate, axit béo thiết yếu, cùng 28 loại vitamin và khoáng chất—để duy trì sự sống và sức khỏe. Tuy nhiên, lượng chất dinh dưỡng cần thiết lại khác nhau. Trong suốt vòng đời của con người, cơ thể liên tục thay đổi và trải qua các giai đoạn khác nhau được gọi là các giai đoạn. Các giai đoạn chính của vòng đời con người được xác định như sau: Thai kỳ. Sự phát triển của hợp tử thành phôi và sau đó thành bào thai để chuẩn bị cho quá trình sinh nở. Trẻ sơ sinh. Phần đầu tiên của tuổi thơ. Đó là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến ngày sinh nhật đầu tiên. Thời thơ ấu và những năm chập chững biết đi. Xảy ra ở độ tuổi từ một đến ba Thời thiếu nhi. Giai đoạn từ trẻ em đến khi bắt đầu dậy thì (từ 4-10 tuổi). Có thể được gọi là thiếu nhi (bao gồm thiếu niên và nhi đồng). Bắt đầu tuổi dậy thì. Có thể xảy ra từ chín đến mười bốn tuổi, đó là thời điểm bắt đầu của tuổi thiếu niên. Tuổi vị thành niên. Giai đoạn diễn ra ở độ tuổi từ mười bốn đến mười tám. * Trưởng thành. Khoảng thời gian từ cuối tuổi thiếu niên đến cuối đời và bắt đầu từ tuổi mười tám ở Mỹ và mười chín tuổi ở một số nước khác. Trung niên. Khoảng thời gian trưởng thành kéo dài từ bốn mươi lăm tuổi đến sáu mươi tư tuổi. Cao tuổi, hoặc già. Kéo dài từ sáu mươi lăm tuổi cho đến hết cuộc đời. * Việc chia nhóm độ tuổi có sự khác biệt về ngôn ngữ và quan niệm ở mỗi nước, khu vực dễ gây nhầm lẫn. Theo quan niệm Việt Nam, 4-9 tuổi là nhi đồng, 10-15 tuổi là thiếu niên. Còn quy định pháp luật ở VN, dưới 16 tuổi được tính chung là trẻ em. Còn Liên Hiệp Quốc quy định người dưới 18 tuổi là chưa thành niên và sau 18 tuổi là thành niên. Phần kiến thức này chủ yếu đưa ra các định hướng căn bản trong việc tiếp cận dinh dưỡng dành cho đối tượng trẻ em đến thanh thiếu niên khỏe mạnh. Những đối tượng đặc biệt cần theo dõi, chăm sóc riêng cùng bác sĩ và chuyên gia nhi khoa. Một số thay đổi sinh lý và cảm xúc quan trọng diễn ra trong giai đoạn cuộc sống từ thời thơ ấu đến tuổi thiếu niên và vị thành niên. Thái độ và nhận thức của trẻ em về thực phẩm sẽ dần sâu sắc hơn. Chúng không chỉ bắt đầu tiếp thu các tín hiệu về sở thích thực phẩm từ các thành viên trong gia đình mà còn từ bạn bè và nền văn hóa rộng lớn hơn. Trong giai đoạn phát triển của trẻ nhỏ chúng ta có thể xây dựng những kết nối trẻ em với đất đai, nguồn nước và thực phẩm địa phương. Điều này có thể giúp giải quyết các vấn đề sức khỏe của trẻ em bằng cách nuôi dưỡng thói quen ăn uống lành mạnh bằng cách dạy và tạo sự thu hút với thiếu nhi về các loại thực phẩm địa phương và truyền thống. Cha mẹ cũng ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn dinh dưỡng của con mình. Thời gian này trong cuộc đời của trẻ tạo cơ hội cho cha mẹ và những người chăm sóc khác củng cố thói quen ăn uống tốt và đưa các loại thực phẩm mới vào chế độ ăn uống, đồng thời vẫn lưu tâm đến sở thích của trẻ. Hiện tại ở các thành phố lớn đã có trường dành cho trẻ em giai đoạn sau 3 tuổi nhưng tầm quan trọng của cha mẹ và người thân chăm sóc là không thể bỏ qua. Cha mẹ cũng nên đóng vai trò là hình mẫu cho con cái của mình, những đứa trẻ thường bắt chước hành vi và thói quen ăn uống của cha mẹ. Cha mẹ và người thân phải tiếp tục giúp con cái trong độ tuổi đi học và thanh thiếu niên để thiết lập thói quen ăn uống lành mạnh và thái độ đối với thực phẩm. Vai trò chính của họ là mang nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khỏe vào nhà, để con cái họ có thể đưa ra những lựa chọn tốt nhất. Về dinh dưỡng thai kỳ, xem thêm bài blog tại đây . Bài viết này sẽ tập trung vào dinh dưỡng từ giai đoạn sinh ra đến lúc trưởng thành. Trẻ sơ sinh Nếu trẻ sinh không biến chứng và trẻ tỉnh táo và khỏe mạnh, trẻ sơ sinh có thể được mang đến bên mẹ để cho bú ngay. Việc này cũng giúp trẻ quen với việc bú mẹ sau đó và kích thích tuyến sữa. Nôn ọe ra chất nhầy sau khi bú rất thường gặp (vì cơ trơn dạ dày & thực quản còn lỏng lẻo) nhưng sẽ giảm bớt trong vòng 48 giờ. Nếu trẻ ọc ra chất nhầy hoặc nôn kéo dài quá 48 giờ hoặc nếu nôn dịch mật, cần phải đánh giá đầy đủ về đường tiêu hóa và đường hô hấp trên để phát hiện bất thường tiêu hóa bẩm sinh. Nhu cầu nước và calo hàng ngày thay đổi theo độ tuổi. Như trẻ sơ sinh dưới 6 tháng là 110-120kcal/1kg trọng lượng cơ thể và trẻ 1 tuổi trở đi là 95-100kcal/kg cân nặng. Các nhu cầu tương đối về protein và năng lượng (g hoặc kcal/kg trọng lượng cơ thể) giảm dần từ cuối giai đoạn nhũ nhi cho đến tuổi thiếu niên (xem bảng Khuyến nghị về chế độ ăn uống tham khảo cho một số chất dinh dưỡng đa lượng, Ủy ban Thực phẩm và Dinh dưỡng, Viện Y học của Học viện Quốc gia), nhưng nhu cầu tuyệt đối tăng lên. Trẻ sơ sinh nên được cho ăn theo nhu cầu, thường là khoảng 8 đến 12 lần/ngày. Lượng ăn vào trung bình mỗi lần cho ăn trong vài ngày đầu có thể chỉ từ 15 đến 30 mL. Sau 48 giờ, các dấu hiệu cho thấy trẻ bú đủ bao gồm trẻ có vẻ hài lòng sau mỗi lần bú, có 6 đến 8 thay tã mỗi ngày và đại tiện đều đặn, ngủ ngon, tỉnh táo khi thức và tăng cân. Mặc dù có sự khác biệt nhỏ trong lượng thức ăn hàng ngày là thường gặp, và cha mẹ thường lo lắng quá mức, chỉ cần đảm bảo theo hướng dẫn trừ khi có dấu hiệu bệnh tật hoặc thay đổi về chỉ số tăng trưởng, đặc biệt là cân nặng. Cân nặng sau khi sinh ra của trẻ có thể giảm sút. Nhưng nếu mất trên 5 đến 7% trọng lượng khi sinh trong tuần đầu tiên cho thấy trẻ bị thiếu dinh dưỡng. Cần phải lấy lại cân nặng lúc sinh sau 2 tuần ở trẻ bú mẹ (sớm hơn ở trẻ bú sữa công thức), và dự kiến sẽ tăng khoảng 20 đến 30 g/ngày sau đó trong vài tháng đầu tiên. Trẻ nhũ nhi nên tăng gấp đôi cân nặng sau khi sinh khoảng sau 5 tháng. Trong 6 tháng đầu tiên, sữa mẹ có thể cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng. Chúng ta cũng có thể bổ sung cho trẻ bằng sữa công thức với các trường hợp thiếu hoặc không có sữa mẹ. Trong trường hợp người mẹ thiếu sữa, sữa của một người mẹ khác cũng là một lựa chọn tốt nhất. Các nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ mang những đặc tính thành phần chỉ có ở người mà không thể thay thế hay bắt chước hoàn hảo được. Sữa mẹ giúp xây dựng khả năng miễn dịch của trẻ, giúp ngăn ngừa hầu hết các bất thường có thể xảy ra trong tương lai như thiếu chất, dậy thì sớm…( Link ) Cũng lưu ý rằng các tuyên bố về tối ưu sức khỏe, lợi ích về phát triển từ sữa công thức có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ ( Link ) ( Link ). Cha mẹ nên cẩn trọng và có ý thức rằng, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhỏ nếu không muốn nói là không thể thay thế ( Link ). Thời thơ ấu Thời ấu thơ bao gồm thời kỳ sơ sinh, nhũ nhi (còn bú mẹ) và những năm chập chững biết đi, thường từ khi mới sinh đến ba tuổi. Từ 6-8 tháng tuổi, tiếp tục cho bé bú mẹ hoặc sữa thay thế từ 3-5 lần một ngày. Bé sẽ bắt đầu bú ít sữa mẹ hoặc sữa thay thế khi mà thức ăn đặc trở thành nguồn dinh dưỡng chính. Thời điểm này, bạn có thể bắt đầu cho trẻ ăn các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật khác: rau (khoai tây, đậu xanh, cà rốt và đậu Hà Lan) đều là những lựa chọn tốt, chúng nên được nấu chín kỹ và nghiền, trái cây (chẳng hạn như chuối nghiền, bơ, đào, hoặc táo). Từ 8-12 tháng tuổi, nên tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ hoặc sữa thay thế 3-4 lần/ ngày. Ở độ tuổi này, cần bổ sung thêm các loại thịt băm vào khẩu phần ăn của trẻ. Khi trẻ được 1 tuổi, nên tăng dần lượng thức ăn dặm, bé sẽ bú hoặc uống ít sữa hơn. Lúc này bé cần được cung cấp nhiều chất dinh dưỡng từ thịt, trái cây, rau, bánh mì và hạt ngũ cốc và nhóm sữa, đặt biệt sữa nguyên kem. Việc này sẽ giúp đảm bảo đầy đủ lượng vitamin và khoáng chất cho trẻ. Tuy nhiên, sữa mẹ hoặc sữa công thức vẫn là nguồn dinh dưỡng chính cho bé trong suốt năm đầu đời, do đó ở thời điểm này, sữa vẫn nên chiếm khoảng 70% khẩu phần ăn. Cần lưu ý rằng trong thời gian này trẻ bắt đầu học cách bò và đi nên sẽ ăn ít thức ăn trong 1 bữa ăn, nhưng sẽ ăn thường xuyên hơn (4-6 lần) trong cả ngày, vì vậy, bố mẹ nên thêm những cử ăn nhẹ ngoài khẩu phần cho trẻ. Sau 24 tháng, hầu hết các bé đã mọc đủ răng và cứng chắc hơn giai đoạn 1 tuổi. Lúc này bé không còn ăn cháo, bột nữa mà có thể ăn những thức ăn giống người lớn, bố mẹ nên cho trẻ ăn cơm cùng gia đình để tạo thói quen tốt trong ăn uống, các món ăn dành cho bé có thể là cháo đặc, súp đặc, cơm,..., đồng thời vẫn cho trẻ uống sữa ít nhất 1 lần/ngày. Bên cạnh 3 bữa ăn chính cùng gia đình, bạn có thể cho trẻ ăn thêm 2 bữa phụ vào giữa buổi sáng và giữa buổi chiều, bữa phụ giúp trẻ không bị đói, ăn uống ngon miệng hơn, trong bữa phụ này, bạn nên cho trẻ ăn các loại trái cây, sữa, sữa chua để hỗ trợ hệ tiêu hóa. Nhu cầu dinh dưỡng thay đổi khi trẻ rời khỏi giai đoạn chập chững biết đi. Từ 03 đến 06 tuổi, trẻ em đến độ tuổi đi học phát triển đều đặn, nhưng sẽ chậm hơn so thời kỳ sơ sinh và mới biết đi. Trẻ cũng trải qua quá trình rụng răng sữa và mọc răng vĩnh viễn, thường bắt đầu từ sáu hoặc bảy tuổi. Khi răng mới mọc, nhiều trẻ bị lệch khớp cắn hoặc răng mọc lệch, có thể ảnh hưởng đến khả năng nhai thức ăn. Những thay đổi khác ảnh hưởng đến dinh dưỡng bao gồm ảnh hưởng của bạn bè đến lựa chọn chế độ ăn uống và các loại thực phẩm do trường học và các chương trình sau giờ học cung cấp, có thể chiếm một phần đáng kể trong chế độ ăn của trẻ. Các vấn đề liên quan đến thực phẩm đối với trẻ nhỏ có thể bao gồm sâu răng, nhạy cảm với thực phẩm và suy dinh dưỡng. Ngoài ra, tăng cân quá mức khi còn nhỏ có thể dẫn đến béo phì khi đến tuổi thiếu niên và trưởng thành. Ở giai đoạn này của cuộc đời, chế độ ăn uống lành mạnh thúc đẩy sự phát triển về thể chất và tinh thần, đồng thời giúp duy trì sức khỏe và thể chất. Trẻ em trong độ tuổi đi học có sự tăng trưởng đều đặn, nhất quán, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 5–7 cm chiều cao và 2–3 kg cân nặng mỗi năm. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của các chi nhanh hơn so với thân, dẫn đến tỷ lệ giống người lớn hơn. Sự phát triển của xương dài kéo căng các cơ và dây chằng, dẫn đến nhiều trẻ em bị "đau do lớn" dẫn đến khó chịu, đặc biệt là vào ban đêm. Nhu cầu năng lượng của trẻ em thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển và mức độ hoạt động thể chất của trẻ. Nhu cầu năng lượng cũng thay đổi tùy theo giới tính. Bé trai thường cần lượng calories nhiều hơn bé gái. Ngoài ra, lượng khuyến nghị về các chất dinh dưỡng đa lượng và hầu hết các chất dinh dưỡng vi lượng đều cao hơn so với kích thước cơ thể, so với nhu cầu dinh dưỡng ở tuổi trưởng thành. Do đó, trẻ em nên được cung cấp thực phẩm giàu dinh dưỡng vào bữa ăn chính và bữa ăn nhẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là không nên cho trẻ ăn quá nhiều, vì điều này có thể dẫn đến tình trạng béo phì ở trẻ em. Theo điều tra dân số của Bộ Y Tế năm 2020, 19% trẻ em thành thị tại VN đang ở trong tình trạng thừa cân béo phì. ( Link )Trong đó, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn). Đặc biệt tại TPHCM, tỉ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở học sinh tiểu học lên tới 56,9%. ( Link ) Chất dinh dưỡng đa lượng Đối với carbohydrate, phạm vi phân phối chấp nhận được (AMDR) là 40–60 phần trăm lượng calo hàng ngày. Carbohydrate giàu chất xơ nên chiếm phần lớn lượng hấp thụ. AMDR đối với protein là 10–30 phần trăm lượng calo hàng ngày (30–90 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Trẻ em sau giai đoạn cai sữa nên nhận được chất xơ từ các loại thực vật, ngũ cốc. Trẻ em có nhu cầu cao về protein để hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cơ bắp. Hàm lượng protein tối thiểu là 1,7 g/100 kcal và hàm lượng protein tối đa là 3,4g/100 kcal trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) Cần có mức axit béo thiết yếu cao để hỗ trợ tăng trưởng (mặc dù không cao như ở trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi). Do đó, AMDR đối với chất béo là 25–35 phần trăm lượng calo hàng ngày (33–47 gam cho 1.200 calo hàng ngày). Hàm lượng chất béo tối thiểu là 4,4 g/100 kcal (40% tổng năng lượng) và hàm lượng chất béo tối đa là 6,4 g/100 kcal (57,2% tổng năng lượng) trong sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được khuyến nghị. ( Link ) ( Link ) Vi chất dinh dưỡng Nhu cầu vi chất dinh dưỡng cần được đáp ứng trước tiên bằng thực phẩm. Cha mẹ và người chăm sóc nên lựa chọn nhiều loại thực phẩm từ mỗi nhóm thực phẩm để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng. Vì trẻ em lớn nhanh nên cần những thực phẩm giàu chất sắt, chẳng hạn như thịt nạc, đậu, cá, gia cầm và ngũ cốc giàu sắt. Fluoride đầy đủ rất quan trọng để hỗ trợ răng chắc khỏe. Một trong những nhu cầu vi chất dinh dưỡng quan trọng nhất trong thời thơ ấu là lượng canxi và vitamin D đầy đủ. Cả hai đều cần thiết để xây dựng xương chắc khỏe. Trẻ em không tiêu thụ đủ vitamin D nên được bổ sung 10 microgam (400 IU) mỗi ngày. Vitamin D có nhiều trong các loại nấm (trồng ngoài trời), dầu gan cá, cá biển, lòng đỏ trứng và các thực phẩm tăng cường. Các loại sữa công thức, sữa bò chính là nguồn thực phẩm bổ sung canxi tốt cho trẻ. Lưu ý cần tránh dùng các loại có đường bổ sung. Các khuyến nghị là giống nhau đối với bé trai và bé gái. Khi chúng ta tiến triển qua các giai đoạn khác nhau của vòng đời con người, sẽ có một số khác biệt giữa nam và nữ về nhu cầu vi chất dinh dưỡng. Tham khảo hướng dẫn nuôi dưỡng trẻ em sơ sinh, trẻ mầm non theo khuyến nghị của Viện Dinh Dưỡng, Bộ Y Tế năm 2016 tại đây và tại đây . Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn thức ăn của trẻ Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến thói quen ăn uống và thái độ của trẻ đối với thực phẩm. Môi trường gia đình, xu hướng xã hội, sở thích về khẩu vị và thông điệp hình ảnh trên các phương tiện truyền thông đều tác động đến cảm xúc mà trẻ phát triển liên quan đến chế độ ăn uống của mình. Quảng cáo trên truyền hình có thể dụ dỗ trẻ tiêu thụ các sản phẩm có đường, thức ăn nhanh nhiều chất béo, dư thừa calo, chất béo công nghiệp và nhiều thành phần tinh chế. Việc tiêu thụ các sản phẩm này có thể gây ra tình trạng thiếu chất dinh dưỡng và cả thừa chất dinh dưỡng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ em. Các nghiên cứu đã cho thấy những mối quan ngại với tình trạng này tại các nước có thu nhập thấp và trung bình ( Link ). Bên cạnh đó chúng có thể hình thành những thói quen dinh dưỡng không tốt sau này do ký ức về đồ ăn của trẻ. Do đó, điều quan trọng là cha mẹ và người chăm sóc phải hướng trẻ đến những lựa chọn lành mạnh. Một cách để khuyến khích trẻ ăn thực phẩm lành mạnh là làm cho không khí bữa ăn trở nên vui vẻ và thú vị. Cha mẹ nên cho trẻ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực phẩm, ví dụ như chọn các mặt hàng khi đi mua sắm hoặc giúp chuẩn bị một phần bữa ăn, chẳng hạn như làm salad. Vào thời điểm này, cha mẹ cũng có thể giáo dục trẻ về an toàn trong bếp. Cha mẹ nên cung cấp các món tráng miệng bổ dưỡng, chẳng hạn như trái cây tươi, thay vì bánh ngọt, đồ ăn nhanh và kem chứa nhiều calo. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy trẻ em ăn cơm cùng gia đình thường xuyên sẽ tiêu thụ nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn. Trẻ em thường dễ chán với những món ăn lặp lại, kể cả việc chế biến hay màu sắc trình bày và chúng cũng thường khó ăn rau xanh, củ quả do trẻ rất nhạy về vị giác. Cách khắc phục là thay đổi món, cách chế biến, cách sắp xếp, trình bày, (như cắt rau củ thành ngôi sao, dùng xiên thịt băm…). Rau củ quả có thể được nghiền ép thành nước ép, sinh tố pha thêm mật ong để nhiều màu sắc và hấp dẫn về mùi vị sẽ thu hút trẻ hơn. Thói quen cho trẻ sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại/ipad để dỗ trẻ ăn có thể tạo ra những hệ lụy không tốt cho não bộ của trẻ. Ngoài ra, việc sử dụng màn hình quá mức có tác động bất lợi đến sự phát triển về mặt xã hội và cảm xúc, bao gồm tăng khả năng béo phì, rối loạn giấc ngủ và các tình trạng sức khỏe tâm thần bao gồm trầm cảm và lo âu. Nó có thể cản trở khả năng diễn giải cảm xúc, thúc đẩy hành vi hung hăng và gây hại cho sức khỏe tâm lý nói chung. ( Link ) Cha mẹ và người thân chăm sóc có thể thay thế hành vi này bằng các hoạt động vui chơi tương tác hoặc đi dạo ngoài trời. Cũng không nên “cưỡng ép” bắt trẻ ăn theo kiểu nhồi nhét cho đủ và cho đúng giờ khi trẻ kháng cự hoặc không muốn ăn. Chăm sóc trẻ em đòi hỏi tìm hiểu về tâm lý và tập tính của trẻ để từ đó xây dựng lên những thói quen tốt và tự động. Trẻ em và suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng là vấn đề mà nhiều trẻ em phải đối mặt, không chỉ ở các quốc gia nghèo mà còn cả các quốc gia đang phát triển và phát triển. Ngay cả với sự giàu có về lương thực ở Bắc Mỹ, nhiều trẻ em vẫn lớn lên trong tình trạng suy dinh dưỡng hoặc thậm chí là đói. Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ phân loại các hộ gia đình thành các nhóm sau: Đảm bảo an ninh lương thực Thiếu an ninh lương thực nhưng không đói Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói vừa phải Thiếu an ninh lương thực với tình trạng đói nghiêm trọng Tại Hoa Kỳ, khoảng 20 phần trăm hộ gia đình có trẻ em không đảm bảo về lương thực ở một mức độ nào đó. Điều này có nghĩa là trẻ em đôi khi không được tiếp cận với các bữa ăn đầy đủ và bổ dưỡng. Lớn lên trong một hộ gia đình không đảm bảo an ninh lương thực có thể dẫn đến một số vấn đề. Thiếu sắt, kẽm, protein và vitamin A có thể dẫn đến còi cọc, bệnh tật và hạn chế phát triển. Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng cho thấy, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi (chiều cao/tuổi) đang giảm dần, từ 29,3% năm 2010 giảm xuống dưới 18,9% vào năm 2022. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ học đường (5-19 tuổi) vẫn còn ở mức 14,8%. ( Link ) Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi chênh lệch mạnh giữa các vùng miền. Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ dưới 5 tuổi vùng miền núi phía Bắc là cao nhất (37,4%), sau đó là Tây nguyên (28,8%). Tỷ lệ thể thấp còi ở trẻ em là người dân tộc thiểu số (31,4%) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người Kinh (15,0%). Tỷ lệ trẻ em là người dân tộc thiểu số nhẹ cân cũng lớn hơn gấp 2,5 lần (21% so với 8,5%) so với trẻ em là người Kinh. Trong trường hợp thiếu an ninh lương thực, việc cung cấp đầy đủ lượng calories hàng ngày nên được chú trọng ưu tiên hàng đầu. Đi kèm với nó là cung cấp đủ thịt cá trứng để hỗ trợ quá trình lớn và phát triển đầy đủ của trẻ. Dị ứng thực phẩm và không dung nạp thực phẩm Sự phát triển của dị ứng thực phẩm là mối quan tâm trong những năm tháng chập chững biết đi. Đây vẫn là vấn đề đối với trẻ em trong độ tuổi đi học. Một số loại thực phẩm gây dị ứng phổ biến nhất bao gồm đậu phộng, sữa bò tươi, đậu nành, lúa mì và động vật có vỏ (nghêu sò ốc hến hải sản tôm cua). Dị ứng xảy ra khi một loại protein trong thực phẩm kích hoạt phản ứng miễn dịch, dẫn đến giải phóng kháng thể, histamine và các chất bảo vệ khác tấn công các vật thể lạ. Các triệu chứng có thể bao gồm ngứa da, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy và buồn nôn. Các triệu chứng thường phát triển trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi tiêu thụ chất gây dị ứng thực phẩm. Trẻ em có thể vượt qua dị ứng thực phẩm, đặc biệt là dị ứng với lúa mì, sữa, trứng hoặc đậu nành. Phản vệ là phản ứng đe dọa tính mạng dẫn đến khó thở, sưng miệng và cổ họng, giảm huyết áp, sốc hoặc thậm chí tử vong. Sữa bò tươi, lúa mì, đậu nành, cá, động vật có vỏ, đậu phộng và các loại hạt cây là những loại có khả năng gây ra loại phản ứng này nhiều nhất. Một liều thuốc Epinephrine thường được tiêm qua “bút” để điều trị cho người bị sốc phản vệ. Một số trẻ em bị chứng không dung nạp thức ăn, không liên quan đến phản ứng miễn dịch. Chứng không dung nạp thức ăn được biểu hiện bằng các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi tiêu thụ một số loại thực phẩm nhất định. Chứng không dung nạp lactose, mặc dù hiếm gặp ở trẻ rất nhỏ, là một ví dụ. Trẻ em mắc chứng bệnh này sẽ có phản ứng bất lợi với lactose trong các sản phẩm từ sữa. Đây là kết quả của tình trạng ruột non không sản xuất đủ enzyme lactase. Các triệu chứng của chứng không dung nạp lactose thường ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và có thể bao gồm đầy hơi, đau bụng, đầy hơi, buồn nôn và tiêu chảy. Chứng không dung nạp lactose được kiểm soát tốt nhất bằng cách thay đổi chế độ ăn uống và tránh bất kỳ loại thực phẩm nào gây ra phản ứng. Adolescence/Vị thành niên Sự khởi đầu của tuổi dậy thì là sự khởi đầu của tuổi vị thành niên và là cầu nối giữa những năm thơ ấu và tuổi trưởng thành. Theo khuyến nghị của DRI, tuổi vị thành niên được chia thành hai nhóm tuổi: 9 đến 13 tuổi và 14 đến 18 tuổi. Một số thay đổi sinh lý quan trọng diễn ra trong giai đoạn này bao gồm sự phát triển của các đặc điểm giới tính chính: các cơ quan sinh sản, cùng với sự khởi đầu của kinh nguyệt ở phụ nữ. Giai đoạn cuộc đời này cũng được đặc trưng bởi sự xuất hiện của các đặc điểm giới tính thứ cấp, chẳng hạn như sự phát triển của lông mặt và cơ thể, sự phát triển của ngực ở trẻ em gái và giọng nói trầm hơn ở trẻ em trai. Những thay đổi thể chất khác bao gồm sự phát triển nhanh chóng và những thay đổi về tỷ lệ cơ thể. Tất cả những thay đổi này, cũng như những điều chỉnh về tinh thần và cảm xúc đi kèm, cần được hỗ trợ bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý. Bắt đầu tuổi dậy thì Tuy không có một khẳng định nhất quán, dậy thì thường bắt đầu ở 9 tuổi và bé gái thường dậy thì sớm hơn so với bé trai. Giai đoạn phát triển thể chất này được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên liên quan đến việc tăng chiều cao từ 20 đến 25 phần trăm. Về mặt tăng trưởng nhanh, tuổi dậy thì xếp thứ hai sau giai đoạn trước khi sinh khi các xương dài của chúng ta phát triển đến kích thước cuối cùng của người trưởng thành. Bé gái sẽ cao hơn từ 5–20 cm, trong khi bé trai cao hơn 10–30 cm. Giai đoạn thứ hai liên quan đến việc tăng thể khối cơ thể, liên quan đến sự phát triển của xương, cơ và mô mỡ. Cũng trong giai đoạn dậy thì, hormone sinh dục kích hoạt sự phát triển của các cơ quan sinh sản và các đặc điểm sinh dục thứ cấp, chẳng hạn như lông mu. Bé gái cũng phát triển những "đường cong", trong khi bé trai trở nên cao lớn hơn và cơ bắp hơn. Dậy thì sớm Dậy thì sớm là tình trạng phát triển các đặc điểm giới tính thứ phát (như có lông mu, kinh nguyệt sớm) trước 8 tuổi ở bé gái và 9 tuổi ở bé trai. Tình trạng này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, cả về thể chất lẫn tâm lý, tinh thần. Trẻ sẽ không đạt được chiều cao, độ lớn cơ thể và sự phát triển toàn diện. ( Link ) Dữ liệu nghiên cứu trong về tình trạng này cho thấy mức độ gặp phải ở trẻ khoảng 1:5000 bé nữ và 1:10000 bé trai. Hiện nay, tình trạng dậy thì sớm đang trở thành một mối lưu tâm. Về mặt sinh lý, dậy thì là kết quả của sự kích hoạt và trưởng thành của trục Vùng dưới đồi (Hypothalamus)- Tuyến yên (Pituitary) - tuyến sinh dục (Gonadal) (HPG) giải phóng ra hormone giải phóng gonadotropin (GnRH). Nó kích thích tiết hormone kích thích nang trứng (FSH) và hormone hoàng thể hóa (LH) từ tuyến yên trước. FSH và LH khởi đầu quá trình sinh tinh và giải phóng testosterone ở nam giới và quá trình sinh trứng và giải phóng estradiol ở nữ giới. ( Link ) Các dấu hiệu lâm sàng ban đầu của dậy thì sớm là phát triển tuyến vú ở nữ giới và tăng thể tích tinh hoàn (lớn hơn 4 ml) ở nam giới. Các dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm tăng trưởng tuyến tính, mụn trứng cá, thay đổi cơ, mùi cơ thể và phát triển lông ở mu và nách. Dậy thì sớm được phân loại thành hai loại chính dựa trên nguyên nhân Dậy thì sớm trung ương (phụ thuộc vào GnRH) - Central Precocious puberty (CPP). Loại dậy thì sớm này biểu thị sự phát triển dậy thì do sự trưởng thành và kích hoạt sớm hơn của trục HPG. Hầu hết thời gian, nguyên nhân phổ biến ở phụ nữ là vô căn, và ở nam giới, thường có một bệnh lý tiềm ẩn. Dậy thì sớm ngoại biên (không phụ thuộc GnRH) - Peripheral Precocious Puberty (PPP). Sự phát triển sớm các đặc điểm sinh dục thứ cấp không phụ thuộc vào sự tiết ra của GnRH cấu thành PPP. Điều này là do sản xuất steroid sinh dục từ các nguồn nội sinh hoặc ngoại sinh. Nó ít xảy ra hơn so với CPP. Trong đó, ngoài các chứng bệnh như Hội chứng McCune-Albright, Hội chứng Said, Hội chứng Van Wyk và Grumbach, và các vấn đề di truyền, các yếu tố về môi trường, dinh dưỡng có thể ảnh hưởng tới quá trình dậy thì. Béo phì trẻ em có mối liên hệ lớn với tình trạng dậy thì sớm CPP (đặc biệt là nữ) do béo phì được đánh giá là một bệnh về rối loạn hormones, bao gồm cả hormone tuyến giáp có thể gây ra cả tình trạng dậy thì muộn ( Link ). Ngăn ngừa béo phì cho trẻ bằng dinh dưỡng lành mạnh, tập thể dục, ngủ đủ giấc chính là biện pháp tốt nhất được khuyến nghị cho việc này. ( Link ) Với, PPP (và kể cả CPP), đều có thể bắt nguồn từ việc tiếp xúc với steroid sinh dục ngoại sinh hoặc nội sinh dư thừa, ví dụ như từ khối u tiết steroid sinh dục ở tuyến sinh dục, tuyến thượng thận. Nhiều nguồn có thể gây phơi nhiễm estrogen hoặc androgen ngoại sinh đã được báo cáo. Các sản phẩm mỹ phẩm, bao gồm cả dầu gội đầu, sữa tắm có chứa các chất có thể gây rối loạn hormone ( Link ). Sử dụng tinh dầu hoa oải hương hoặc tinh dầu trà xanh, được mô tả là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra chứng nhũ hóa tuyến vú ở nam giới trong giai đoạn tiền dậy thì. ( Link ) Các sản phẩm đồ nhựa có chứa Phthalates, BPA là các chất gây rối loạn hormone có tác động tiêu cực đến sức khỏe con người và cũng cho thấy có liên quan đến tình trạng dậy thì sớm. ( Link ) ( Link ) ( Link) bao gồm cả các đặc tính sinh dục khác. ( Link ) ( Link ) Năng lượng và chất dinh dưỡng đa lượng Nhu cầu năng lượng cho trẻ tiền vị thành niên khác nhau tùy theo giới tính, mức độ tăng trưởng và mức độ hoạt động. Đối với trẻ từ chín đến mười ba tuổi, trẻ em gái nên tiêu thụ khoảng 1.400 đến 2.200 calo mỗi ngày và trẻ em trai nên tiêu thụ 1.600 đến 2.600 calo mỗi ngày. Trẻ tiền vị thành niên năng động thường xuyên tham gia thể thao hoặc tập thể dục cần ăn nhiều calo hơn để bù đắp cho lượng năng lượng tiêu hao tăng lên. Đối với carbohydrate, AMDR là 45 đến 65 phần trăm lượng calo hàng ngày (là mức khuyến nghị hàng ngày là 158–228 gam cho 1.400–1.600 calo hàng ngày). Carbohydrate có nhiều chất xơ nên chiếm phần lớn lượng hấp thụ. AMDR đối với protein là 10 đến 30 phần trăm lượng calo hàng ngày, ít nhất khoảng 70g hàng ngày cho nam và 60g hàng ngày cho nữ. AMDR đối với chất béo là 25 đến 35 phần trăm lượng calo hàng ngày (39–54 gam cho 1.400 calo hàng ngày đối với bé gái và 44–62 gam cho 1.600 calo hàng ngày đối với bé trai), tùy thuộc vào lượng calo tiêu thụ và mức độ hoạt động. Vi chất dinh dưỡng Các vitamin chính cần thiết trong thời kỳ dậy thì bao gồm vitamin D, K và B12. Lượng canxi đầy đủ là điều cần thiết để xây dựng xương và ngăn ngừa loãng xương sau này. Các bé gái trẻ cần nhiều sắt hơn khi bắt đầu có kinh nguyệt, trong khi các bé trai trẻ cần thêm sắt để phát triển khối lượng cơ nạc. Hầu như tất cả các nhu cầu này đều cần được đáp ứng thông qua các lựa chọn chế độ ăn uống, không phải thực phẩm bổ sung. Tham khảo Khuyến nghị Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên từ Bộ Y Tế tại đây và tại đây hoặc khuyến nghị của WHO/FAO tại đây . Tuổi trưởng thành/Late Adolescene Sau tuổi dậy thì, tốc độ tăng trưởng thể chất chậm lại. Các bé gái ngừng phát triển chiều cao vào khoảng mười sáu tuổi, trong khi các bé trai tiếp tục phát triển chiều cao cho đến độ tuổi từ mười tám đến hai mươi. Một trong những thay đổi về tâm lý và cảm xúc diễn ra trong giai đoạn này bao gồm mong muốn độc lập khi thanh thiếu niên muốn phát triển tách biệt khỏi gia đình. Những thay đổi tâm lý, bao gồm cả việc chú ý đến ngoại hình, tò mò về tình yêu/tình dục ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động ăn uống của thanh thiếu niên. Họ sẽ có xu hướng bị áp lực đồng trang lứa ảnh hưởng và có thể sẽ không nghe theo chỉ bảo từ cha mẹ, đặc biệt nếu mang tính cưỡng ép hoặc tạo cảm giác hình thức. Vì vậy, việc tạo ký ức tuổi thơ với các bữa ăn gia đình và các hoạt động sinh hoạt chơi đùa chung trực tiếp với ba mẹ rất quan trọng. Các bạn trẻ này sẽ khẳng định sự độc lập của mình bằng cách tự chọn những gì mình muốn ăn và ăn xa nhà. Họ sẽ không thích cha mẹ mang cơm đến trường cho hoặc ăn cùng cha mẹ ở những nơi công cộng có thể gặp bạn bè đồng trang lứa. Những thanh thiếu niên lớn tuổi hơn cũng sẽ tò mò với các loại thực phẩm mới bao gồm cả các nhóm kém lành mạnh như rượu bia, thuốc lá (thuốc lá điện tử). Cha mẹ cần lưu ý rằng, lựa chọn thực phẩm của các con sẽ quan trọng hơn thời gian hoặc địa điểm để tránh tạo cảm giác ép buộc. Phải sau 16 tuổi, khả năng phân tích có tính chiến lược trong các lựa chọn của mình mới hình thành đầy đủ ở các bạn thanh thiếu niên. Nên họ vẫn cần định hướng từ gia đình, nhà trường. Thanh thiếu niên sẽ có nguy cơ ăn nhiều thức ăn nhanh, bánh kẹo, nước ngọt, trà sữa do ảnh hưởng đồng trang lứa và các nội dung quảng cáo. Những thách thức khác mà thanh thiếu niên có thể phải đối mặt bao gồm béo phì và rối loạn ăn uống. Cha mẹ và người lớn nên định hướng các thói quen ăn uống lành mạnh đi kèm với việc hỗ trợ cho các hoạt động mà họ thích, chẳng hạn như chơi thể thao, tham gia nghệ thuật, tạo tính kết nối với sở thích lối sống của họ, chẳng hạn như vóc dáng, thành tích thể thao hoặc phong cách sống. Ở các bé gái tuổi teen, chất béo chiếm tỷ lệ lớn hơn trong trọng lượng cơ thể, trong khi các bé trai tuổi teen có sự gia tăng cơ và xương nhiều hơn. Dù chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhận thức, chức năng vận động của một thanh thiếu niên đã tương đương với chức năng của một người trưởng thành. Nên ngoài yếu tố dinh dưỡng đầy đủ, cha mẹ cũng cần chú ý đến khả năng thích thử nghiệm, đôi khi là liều lĩnh của các bạn trẻ. Năng lượng và chất dinh dưỡng đa lượng Thanh thiếu niên có cảm giác thèm ăn lớn hơn do nhu cầu dinh dưỡng tăng lên. Sức ăn tăng lên có thể là một nguy cơ nếu không kiểm soát điều độ, đặc biệt với trẻ ít vận động. Nhu cầu dinh dưỡng ở tuổi vị thành niên đến trưởng thành cao hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong vòng đời, ngoại trừ thời kỳ mang thai. Nhu cầu năng lượng ở độ tuổi từ mười bốn đến mười tám có thể lên tới 1.800 đến 2.400 calo đối với con gái và 2.000 đến 3.000 calo đối với con trai, tùy thuộc vào thể chất và mức độ hoạt động. Cần lưu ý hạn chế hoặc tránh hẳn năng lượng đến từ “calo rỗng” gồm các loại đồ uống nhiều đường và bánh kẹo ngọt. Ngoài ra, thanh thiếu niên tham gia thể thao phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng lên của mình. Giai đoạn tuổi trưởng thành sau đó, cũng thường được gọi là thanh niên, các bạn trẻ sẽ có trách nhiệm hơn với lựa chọn chế độ ăn uống của mình so với lúc trước, nhưng họ vẫn cần được quan tâm và định hướng. Đặc biệt là đứng trước các nguy cơ thử nghiệm những thứ không lành mạnh hoặc các rối loạn ăn uống do cảm xúc tiêu cực (như thất tình, chán nản do kết quả học tập kém…) hoặc ám ảnh về ngoại hình. Đối với carbohydrate, AMDR là 45 đến 65 phần trăm lượng calo hàng ngày (203–293 gam cho 1.800 calo hàng ngày). Thanh thiếu niên cần nhiều khẩu phần ngũ cốc hơn trẻ nhỏ và nên ăn ngũ cốc nguyên hạt, chẳng hạn như lúa mì, yến mạch, lúa mạch và gạo lứt. Viện Y học khuyến nghị lượng protein cao hơn để tăng trưởng ở nhóm thanh thiếu niên. AMDR đối với protein là 10 đến 30 phần trăm lượng calo hàng ngày (45–135 gam cho 1.800 calo hàng ngày) và nguồn protein nạc, chẳng hạn như thịt, gia cầm, cá, đậu, các loại hạt (diêm mạch, hạt chia, hạt mè…) là những cách tuyệt vời để đáp ứng những nhu cầu dinh dưỡng đó. AMDR đối với chất béo là 25 đến 35 phần trăm lượng calo hàng ngày (50–70 gam cho 1.800 calo hàng ngày) và AMDR đối với chất xơ là 25–34 gam mỗi ngày, tùy thuộc vào lượng calo hàng ngày và mức độ hoạt động. Điều cần thiết đối với các vận động viên trẻ và những thanh thiếu niên năng động khác là phải uống đủ nước, vì họ có nguy cơ bị mất nước cao hơn và thường không có ý thức rõ ràng về việc này. Các vi chất dinh dưỡng Các khuyến nghị về vi chất dinh dưỡng đối với thanh thiếu niên chủ yếu giống với người lớn, mặc dù trẻ em ở độ tuổi này cần nhiều khoáng chất nhất định hơn để thúc đẩy sự phát triển của xương (ví dụ như canxi và phốt pho, cùng với sắt và kẽm đối với trẻ em gái). Một lần nữa, vitamin và khoáng chất nên được lấy từ thực phẩm trước, chỉ bổ sung một số vi chất dinh dưỡng nhất định (như sắt). Các vi chất dinh dưỡng quan trọng nhất đối với thanh thiếu niên là canxi, vitamin D, vitamin A và sắt. Canxi và vitamin D đầy đủ rất cần thiết cho việc xây dựng khối lượng xương. Khuyến nghị về canxi là 1.300 miligam cho cả bé trai và bé gái. Sữa ít béo và pho mát là nguồn canxi tuyệt vời và giúp thanh thiếu niên tránh chất béo bão hòa và cholesterol. Thanh thiếu niên cũng có thể sử dụng các sản phẩm bổ sung canxi, chẳng hạn như ngũ cốc ăn sáng và nước cam. Sắt hỗ trợ sự phát triển của cơ và khối lượng cơ nạc. Các bé gái tuổi vị thành niên cũng cần đảm bảo hấp thụ đủ sắt khi bắt đầu có kinh nguyệt. Các bé gái từ mười hai đến mười tám tuổi cần 15 miligam sắt mỗi ngày. Tăng lượng vitamin C từ nước cam và các nguồn khác có thể hỗ trợ hấp thụ sắt. Ngoài ra, ăn đủ trái cây và rau quả giúp đáp ứng nhu cầu vitamin A. Bảng 14.3 “Mức vi chất dinh dưỡng trong thời kỳ thanh thiếu niên lớn tuổi” cho thấy các khuyến nghị về vi chất dinh dưỡng dành cho thanh thiếu niên lớn tuổi, có sự khác biệt đôi chút giữa nam và nữ, không giống như các khuyến nghị dành cho tuổi dậy thì. Tham khảo Khuyến nghị Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên từ Bộ Y Tế tại đây và tại đây hoặc khuyến nghị của WHO/FAO tại đây . Rối loạn ăn uống Nhiều thanh thiếu niên phải vật lộn với chứng rối loạn ăn uống, có thể ảnh hưởng xấu đến chế độ ăn uống và sức khỏe. Một nghiên cứu do Đại học North Dakota State công bố ước tính rằng những tình trạng này ảnh hưởng đến hai mươi bốn triệu người ở Hoa Kỳ và bảy mươi triệu người trên toàn thế giới. ( Link ) Những rối loạn này phổ biến hơn ở trẻ em gái vị thành niên, nhưng đã gia tăng ở trẻ em trai vị thành niên trong những năm gần đây. Vì rối loạn ăn uống thường dẫn đến suy dinh dưỡng khiến cho trẻ vị thành niên mắc phải bị thiếu hụt các chất dinh dưỡng quan trọng mà cơ thể vẫn đang phát triển cần có đủ. Rối loạn ăn uống liên quan đến hành vi cực đoan liên quan đến thức ăn và tập thể dục. Chúng bao gồm một nhóm các tình trạng được biểu hiện bằng việc ăn quá ít, ám ảnh ăn uống hoặc ăn quá vô độ. Một số tình trạng này bao gồm: Chán ăn tâm thần. Chán ăn tâm thần là một tình trạng có khả năng gây tử vong, đặc trưng bởi việc ăn ít và sụt cân quá mức. Những người mắc chứng rối loạn này bận tâm đến chế độ ăn kiêng, lượng calo và lượng thức ăn nạp vào ở mức độ không lành mạnh. Những người chán ăn có hình ảnh cơ thể kém, dẫn đến lo lắng, tránh ăn, chế độ tập thể dục cứng nhắc, nhịn ăn và phủ nhận cơn đói. Tình trạng này chủ yếu ảnh hưởng đến phụ nữ. Rối loạn ăn uống vô độ. Những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ thường xuyên ăn một lượng thức ăn cực lớn trong thời gian ngắn. Ăn uống vô độ là một hành vi cưỡng chế và những người mắc chứng bệnh này thường cảm thấy mình không thể kiểm soát được. Hành vi này thường gây ra cảm giác xấu hổ và bối rối, dẫn đến béo phì, huyết áp cao, mức cholesterol cao, tiểu đường loại 2 và các vấn đề sức khỏe khác. Cả nam và nữ đều mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ. Rối loạn ăn uống bắt nguồn từ căng thẳng, lòng tự tin thấp và các vấn đề tâm lý và cảm xúc khác. Điều này đặc biệt phổ biến với sự ám ảnh ngoại hình hay cảm giác kém hài lòng về ngoại hình do mạng xã hội mang lại. Cha mẹ cần theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng của những rối loạn này, bao gồm giảm cân đột ngột, uể oải, nôn sau bữa ăn và sử dụng thuốc ức chế cảm giác thèm ăn. Rối loạn ăn uống có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong nếu không được điều trị. Điều trị bao gồm liệu pháp nhận thức, hành vi và dinh dưỡng. Xem thêm về rối loạn chán ăn và ám ảnh ăn uống . Béo phì ở trẻ em và thanh thiếu niên Theo điều tra dân số của Bộ Y Tế năm 2020, 19% trẻ em thành thị tại VN đang ở trong tình trạng thừa cân béo phì. ( Link )Trong đó, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 7,4% (9,8% ở thành thị, 5,3% ở nông thôn). Đặc biệt tại TPHCM, tỉ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở học sinh tiểu học lên tới 56,9%. ( Link ). Trẻ em cần lượng calo đầy đủ để phát triển và điều quan trọng là không áp dụng chế độ ăn kiêng quá khắt khe. Tuy nhiên, việc vượt quá nhu cầu calo thường xuyên có thể dẫn đến tình trạng béo phì ở trẻ em, đây đã trở thành vấn đề lớn ở nhiều thành phố lớn. Có một số lý do đằng sau vấn đề này, bao gồm: Khẩu phần ăn kích thước lớn Hạn chế tiếp cận thực phẩm giàu dinh dưỡng Tăng khả năng tiếp cận đồ ăn nhanh và các cửa hàng bán đồ ăn nhanh, trà sữa Thiếu hỗ trợ cho con bú Giảm chương trình giáo dục thể chất ở trường học Hoạt động thể chất không đủ và lối sống ít vận động Thông điệp truyền thông khuyến khích tiêu thụ thực phẩm không lành mạnh Trẻ em bị béo phì có nhiều khả năng trở thành người lớn thừa cân hoặc béo phì. Béo phì ảnh hưởng sâu sắc đến lòng tự trọng, sự phát triển và mức độ hoạt động. Quan trọng hơn nữa, đây là yếu tố nguy cơ chính đối với một số bệnh sau này trong cuộc sống, bao gồm bệnh tim mạch, tiểu đường loại 2, đột quỵ, tăng huyết áp và một số bệnh ung thư. ( Link ) Chỉ số thể khối BMI được sử dụng cho người lớn không phù hợp để theo dõi tăng cân ở trẻ vì thành phần cơ thể của trẻ em thay đổi khi chúng phát triển và khác nhau giữa bé trai và bé gái. Cần so sánh BMI với FFMI, %BDF để xem xét quá trình tăng trưởng của trẻ. Việc sử dụng FFMI/%BDF để đánh giá tốc độ tăng trưởng của trẻ đang trở thành xu hướng được nghiên cứu và khuyến nghi do FFM sẽ tăng lên trong suốt thời kỳ trưởng thành và ổn định vào những năm 20 tuổi ( Link ). ( Link ). ( Link ). Tuy chưa xác lập được con số cụ thể thống nhất cho các nhóm chủng tộc nhưng nếu trẻ tăng cân nhưng tăng mỡ quá nhanh, không tương ứng với tăng khối lượng nạc (FFM), cha mẹ cần có biện pháp can thiệp. Ngoài ra, việc tăng cường hoạt động thể chất của trẻ và hạn chế các hoạt động ít vận động, chẳng hạn như xem tivi, chơi trò chơi điện tử hoặc lướt Internet là vô cùng có lợi. Giải quyết tình trạng béo phì ở trẻ em có thể bao gồm thay đổi hành vi, tư vấn tập thể dục, hỗ trợ hoặc trị liệu tâm lý, tư vấn gia đình và tư vấn lập kế hoạch bữa ăn cho gia đình. Một lưu ý quan trọng rằng, mục tiêu không phải là giảm cân mà là để chiều cao và sự phát triển hệ xương/cơ và thể chất bắt kịp cân nặng khi trẻ tiếp tục phát triển. Không nên giảm cân nhanh đối với trẻ tiền thiếu niên hoặc trẻ nhỏ hơn do nguy cơ thiếu hụt dinh dưỡng và chậm phát triển. Tránh Đường Bổ Sung Một yếu tố chính góp phần gây ra tình trạng béo phì ở trẻ em là việc tiêu thụ đường tinh luyện bổ sung. Đường bổ sung không chỉ bao gồm đường được thêm vào thức ăn trên bàn ăn mà còn là thành phần trong các mặt hàng như bánh mì, bánh quy, bánh ngọt, bánh nướng, mứt và nước ngọt. Đường bổ sung trong các mặt hàng mua ở cửa hàng có thể được liệt kê là đường trắng, đường nâu, xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao, mật ong, xi-rô mạch nha, xi-rô cây phong, mật mía, dextrose khan, dextrose tinh thể và nước ép trái cây cô đặc. Không bao gồm đường có sẵn trong thực phẩm (naturally occurring), chẳng hạn như lactose trong sữa hoặc fructose trong trái cây. Ngoài ra, đường thường "ẩn" trong các mặt hàng được thêm vào thực phẩm sau khi chế biến, chẳng hạn như tương cà, nước sốt trộn salad và các loại gia vị khác. Theo thống kê, người Việt đang tiêu thụ đường ở mức tăng gấp 10 lần trong hai thập kỷ gần đầy và dần đạt mốc 50g/ngày, vượt gấp 2 lần ngưỡng khuyến nghị của WHO (25g/ngày). ( Link ) Thủ phạm chính là thực phẩm chế biến và đóng gói, cùng với soda và các loại đồ uống khác. Những thực phẩm này không chỉ chứa nhiều đường mà còn ít chất dinh dưỡng. Lượng đường bổ sung nên được giới hạn ở mức 100 calo mỗi ngày (tương đương 25g) hoặc ít hơn để ngăn chặn thói quen ăn uống kém. Công cụ để thay đổi Trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên phải hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh trong sáu mươi phút mỗi ngày. Điều này bao gồm hoạt động aerobic, cùng với các bài tập tăng cường xương và cơ như tập kháng lực, tập tạ. Tuy nhiên, nhiều người trẻ không đạt được mục tiêu này. Trẻ vị thành niên phải được khuyến khích có lối sống năng động hơn để ngăn ngừa hoặc điều trị tình trạng béo phì ở trẻ em. Một cách để chương trình thúc đẩy hoạt động thể chất là khuyến khích trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên tìm ra điều mà chúng thích làm. Khi trẻ em tìm được hoạt động mà chúng thích, dù là đạp xe, chơi bóng đá, tham gia đội bóng đá hay tham gia nhóm nhảy, chúng sẽ có nhiều khả năng vận động và giữ gìn sức khỏe hơn. Xem thêm bài blog này để có những cách ứng dụng cụ thể hơn.
